quốc La Mã thần thánh, hay không? Ở câu hỏi này, trách nhiệm chứng
minh nằm trong tối thiểu hai nguyên do.
Đầu tiên, cả Hildebrand lẫn người ủng hộ đều không tìm cách – trước
hoặc sau sắc lệnh cấm phong chức năm 1075 – phủ nhận quyền lực thế tục
đóng vai trò hợp pháp trong thủ tục phong chức từ Giáo hoàng trở xuống.
Thứ hai, trong vòng 30 năm, tòa thánh Vatican đã bắt tay với Đế quốc La
Mã thần thánh trong xung đột cũ về vấn đề lấy vợ lẽ và buôn thần bán
thánh. Sự hợp tác với đế quốc trong những nhiệm vụ này đã chựng lại sau
cái chết của Henry III, lúc ấy con trai ông còn quá nhỏ. Lớn lên, Henry VI
không đủ tài cai trị. Chính trong hoàn cảnh này, Giáo hoàng dấn thân vào
chính sách hạn chế hoặc ngăn cấm quyền lực thế tục can thiệp vào việc
phong chức tu sĩ. Điều này tuy có thể chính đáng, song phải thừa nhận rằng
nó là bước đi mang tính cách mạng; và mặc cho mọi khiêu khích, nếu
Hildebrand đừng thách đấu vào năm 1075, thì có lẽ đã phục hồi mối quan
hệ tốt đẹp rồi. Hildebrand đã đi đến hành động thiếu kiên nhẫn, và động cơ
tốt đẹp của ông ta bị mất đi giá trị trước sức báo thù của vương quyền vì sự
làm nhục mà nó đã gánh chịu. Lúc đội mũ Giáo hoàng, Hildebrand đã lấy
tên Gre-gory, cũng là tên vị Giáo hoàng bị phế truất vào dịp đó.
Đặt ra vấn đế mới về phong chức là một việc làm gây bất hòa giữa
Giáo hoàng và đế quốc vì vấn đề thứ ba này nhập nhằng hơn những vấn đề
khác được hai thế lực này nhất trí với nhau chưa lâu.
Nguồn gốc sự việc phát sinh từ thông lệ phong chức giám mục đòi hỏi
sự tán thành của nhiều bên khác nhau. Đây là một trong những nguyên tắc
sơ khai trong kỷ luật của giáo hội: giám mục phải được giới tăng lữ và
người của tòa giám mục chọn ra, sau đó phải được số đại biểu quy định
trong giáo khu tôn phong. Và quyền lực thế tục chưa bao giờ tìm cách
chiếm đoạt đặc quyền của giám mục hay thách thức quyền bầu chọn của
giới tăng lữ và nhân dân. Trên thực tế, quyền lực thế tục đóng vai trò đề cử
ứng cử viên và thực thi quyền phủ quyết cuộc bầu chọn. Đã nhiều dịp,
Hildebrand công khai thừa nhận quyền này.