thỏa mãn với việc săn tìm tính “văn minh” cho riêng mình. Nó còn vây bắt
gần hết các xã hội nguyên thủy còn sống sót; một số bộ lạc như người
Tasmania và hầu hết bộ lạc thổ dân Bắc Mỹ đã diệt vong, trong khi số khác
như những người da đen ở châu Phi phải cố xoay xở để tồn tại, và ngăn
dòng sông Niger cho chảy vào Hudson và sông Congo cho chảy vào
Mississippi – giống như hành động tương tự của con quái vật Tây phương
này khi chắn dòng sông Dương Tử cho chảy vào Eo biển Malacca. Nô lệ da
đen bị đưa lên tàu sang châu Mỹ, culi người Tamil hay Trung Hoa phải lên
tàu đến các bờ biển của Ấn Độ Dương là bản sao của nô lệ đi từ bờ biển
Địa Trung Hải đến các nông trại và đồn điền ở Ý vào hai thế kỷ cuối trước
CN.
Trong tầng lớp bị trị phương Tây còn một đạo quân người ngoại quốc
khác bị mất định hướng tinh thần nhưng không bị đuổi khỏi quê cha đất tổ.
Trong cộng đồng đang tìm cách thích ứng với nhịp sống của nền văn minh
ngoại quốc, cần một tầng lớp xã hội đóng vai trò như “cái biến áp”; và giới
trí thức ra đời – thường rất đột ngột và giả tạo – theo nhu cầu trên. Giới trí
thức là tầng lớp sĩ quan liên lạc đã học được các thủ đoạn nhà nghề của nền
văn minh xâm lược đến mức cho phép cộng đồng của họ trụ vững trong
môi trường xã hội chiều theo áp đặt của nền văn minh xâm lược thì sống,
còn theo truyền thống địa phương thì chết.
Những tân binh đầu tiên của giới trí thức này là sĩ quan quân đội và sĩ
quan hải quân, người đã học được nhiều mưu chước của xã hội áp bức
nhằm cứu nước Nga của Peter Đại đế khỏi gót giày xâm lược của người
Thụy Điển, hoặc nước Thổ Nhĩ Kỳ và Nhật Bản bản sau này khỏi quân
Nga. Kế đến là các nhà ngoại giao, người đã học được cách điều đình với
chính quyền phương Tây. Tiếp đến nữa là các nhà buôn. Và cuối cùng, như
là chất men thấm sâu vào đời sống xã hội, giới trí thức hình thành những típ
người đặc trưng: thầy giáo học bí quyết giảng dạy các môn học Tây
phương, công chức chọn hành nghề công chính theo lối Tây, luật sư kiếm
cách áp dụng phiên bản bộ luật Napoleon theo thủ tục tố tụng của Pháp.