với nỗi khó chịu về chuyện chống lại người thu thuế bằng bạo lực. Về sau,
khi người ủ rượu bia phái Quaker chuyển sang chế biến cacao do phản đối
chất làm say, và chủ hiệu bán lẻ dán giá cố định lên hàng hóa do ngại thay
đổi giá lúc mặc cả, họ đã liều vận may cho lòng trung thực của mình.
Nhưng trong trường hợp này, họ chỉ chứng minh được chân lý của câu tục
ngữ “trung thực là cách xử sự tốt nhất”; và vì lẽ ấy, họ loại lòng trung thực
ra khỏi danh sách tôn giáo vô sản. Khác với các ông tổ truyền đạo, họ
chẳng bao giờ là người truyền giáo nhiệt thành. Họ vẫn là một hội chọn lọc,
và nguyên tắc thôi làm thành viên của hội nếu kết hôn với người ngoài đã
giúp giữ vững số lượng thành viên đầy đủ phẩm chất.
Tuy khác với tín đồ phái Quaker về nhiều mặt, nhưng lịch sử của hai
nhóm tín đồ thuộc giáo phái rửa tội lại có một nét giống đáng lưu ý. Sau
khởi đầu đầy bạo lực, họ theo nguyên tắc ôn hòa, và sớm tách khỏi giai cấp
vô sản.
Tầng lớp bị trị quốc nội Trung Hoa đã tìm ra tôn giáo trong phái Đại
thừa vốn là biến hóa của triết lý Phật giáo trước đây. Trong chủ nghĩa cộng
sản, chúng ta có ví dụ nổi tiếng về triết học phương Tây cận đại đã biến đổi
thành tôn giáo vô sản theo con đường bạo lực.
Karl Marx tự xưng mình là học trò của nhà triết học Hegel, và áp dụng
phương pháp biện chứng của Hegel vào các hiện tượng kinh tế chính trị ở
thời của ông. Tuy nhiên, các yếu tố biến chủ nghĩa cộng sản thành sức
mạnh dễ bùng nổ không phải là sáng tạo của Hegel; chúng bắt nguồn từ
lòng ngoan đạo của tổ tiên – đạo Cơ Đốc vẫn chảy trong huyết quản của
mỗi người dân phương Tây. Và những yếu tố như thế có thể bắt nguồn từ
đạo Do Thái, cha đẻ “hóa thạch” của đạo Cơ Đốc đã được cộng đồng người
Do Thái bảo tồn và phát huy thông qua mở cửa khu người Do Thái và giải
phóng dân Do Thái phương Tây. Marx đặt giai cấp vô sản quốc nội của thế
giới phương Tây vào địa vị dân Do Thái, và tưởng tượng vương quốc của
Chúa cứu thế là nền chuyên chính vô sản; nhưng đặc trưng nổi bật nhất của
sách khải huyền của người Do Thái lại lộ qua bề ngoài sáo mòn.