chừng mực mà nhà Mai Lĩnh đã làm được; đồng thời cũng gánh chịu những
dị bản mà các lần in của Mai Lĩnh gây ra, cả hữu ý lẫn vô tình.
Thật ra, nếu khi đó những người biên soạn và nhà xuất bản lưu ý
tham khảo cả hai bản Minh Đức nữa, thì có thể sẽ đưa tới người đọc một văn
bản khả quan hơn. Song, thứ nhất, cho đến năm 1986, nhãn “Minh Đức” còn
gói theo những định kiến tệ hại (kể từ sau việc đàn áp Nhân văn – Giai
phẩm, 1958), thứ hai, cũng thời gian ấy, trong cả giới xuất bản lẫn giới
nghiên cứu hầu như chưa ai nghĩ rằng các tác phẩm văn chương quốc ngữ
lại cũng có các vấn đề về văn bản!
Bộ tuyển này, Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, có các nhà nghiên cứu
đứng tên soạn giả (hai soạn giả Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Hữu Tá khi đó
đều là giảng viên khoa ngữ văn Đại học sư phạm Hà Nội). Tuy vậy, về mặt
xử lý văn bản, các soạn giả thường chỉ dừng lại ở việc cung cấp tài liệu. Còn
lại, các công việc như tổ chức đánh máy, biên tập, đọc duyệt, v.v… đều
thuộc về nhà xuất bản, khi đó có tư cách một cơ quan nhà nước. Cần nói rõ
điều này để thấy, đối với các dị bản mới nảy sinh ở bản này, vai trò của các
soạn giả là khá ít, trong khi đó, nhà xuất bản, với tư cách cơ quan nhà nước
về văn hóa, có quyền giữ nguyên hoặc thay đổi từng phần đối với nội dung
và lời văn các tác phẩm, nhất là các tác phẩm ra đời trước khi có nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Điều thấy rõ sau những đối chiếu chi tiết là, bản Văn học 1987 (bản
G) đã tạo thêm nhiều dị bản hơn hẳn mỗi bản in trước đây.
Thông thường là sự sửa chữa.
Bản Văn học 1987 (bản G) thường sửa một từ này thành một từ
khác, không xa lắm về nghĩa, như “phân vua” thành “phân bua”, “từ đây”
thành “từ nay”, “hôm ấy” thành “hôm đó”, “ý vị” thành “ý nhị”, “nó cố trí”
thành “nó cố nghĩ”, “trong cuộc cải cách xã hội” thành “trong việc cải cách
xã hội”, v.v…