nghe khi gặp nhau trên núi.
Sau khi nghe họ trình bày, viên chánh án sáng mắt ra. ông hối tiếc đã không
chịu cho tôi trình bày, và quyết định đi sâu vào vụ việc này. ông sai người
đi tìm hai thương nhân trọ tại quán lưu trú. Nhưng chúng không còn ở đấy
nữa. Chúng đã vội lên tàu giong buồm ra khơi, biến mất. Mặc dù tôi đã bị
quan toà tống giam, chúng vẫn chưa hết lo âu Một sự bỏ đi vội vã như vậy
làm quan chánh án tin chắc tôi bị giam giữ bất công. Tôi được trả lại tự do.
Và thế là chấm dứt vụ liên kết làm ăn giữa tôi với hai nhà buôn kinh hoàn
kia.
Tôi thoát chết ngoài biển, tôi được thả ra khỏi trại giam, đáng ra tôi phải tự
cho mình là người vô cùng chịu ơn trời đất Nhưng tình cảnh tôi lúc này có
sống cũng chẳng sung sướng gì. Không tiền bạc, không bạn bè, không uy
tín, tôi thấy mình đã lâm vào cảnh hoặc phải đi ăn xin hoặc chịu chết đói.
Tôi lê chân ra khỏi thành phố Ormut mà chẳng hiểu rồi đây thân phận mình
sẽ ra sao. Tôi cứ đưa chân bước về phía đồng cỏ vùng La- đồng cỏ này nằm
vào giữa triền núi cao và bờ biển vùng vịnh Ba Tư. Đến cánh đồng, tôi gặp
một đoàn lữ hành những thương nhân người Ấn Độ đang chuẩn bị nhổ trại
đi tiếp về thành phố Sira. Tôi theo đoàn thương nhân ấy, làm giúp họ những
việc lặt vặt dọc đường, nhờ vậy có thể kiếm sống qua ngày. Tôi cùng đoàn
về đến thành phố Sira.
Tôi dừng lại ở thành phố này. Hồi bấy giờ đức vua Tamaspơ nước Ba Tư
đang đặt kinh đô tại đây.
Một hôm, sau khi cầu nguyện tại đại thánh đường, tôi trở về lại nơi trọ, dọc
đường chợt gặp một ông quan của triều đình vua Ba Tư. ông mặc áo quần
rất sang trọng, dáng người oai vệ. ông chăm chú nhìn tôi rồi tiến đến gần và
hỏi:
- Chàng trai trẻ kia, anh từ nước nào đến? Ta trông anh có vẻ một người
nước ngoài, và dường như anh đang không phải là người dư dả lắm.
Tôi đáp tôi từ thành phố Batđa đến. Tình cảnh của tôi hiện nay quả đúng
như lời ngài nói. Tiếp đấy tôi kể lại tóm tắt câu chuyện của tôi cho ông
nghe. Có vẻ như ông lắng tai chú ý, còn tỏ ra thông cảm với nỗi bất hạnh
cửa tôi.