nhà tôi những người hám hôi của. Viên quan lo việc cảnh sát thành phố
Basra một hôm tìm đến gặp tôi và nói:
- Ta chính là quan Đaroga (Viên quan lo về trật tự trị an) của thành phố này
đây. Ta đến đây hỏi cho biết cái kho báu đã giúp anh sống xa hoa như thế,
nằm ở đâu?
Nghe hỏi, tôi bối rối chẳng biết nên trả lời thế nào.
Nhìn thấy thái độ lo lắng của tôi, viên Đaroga cho rằng những lời đồn đại
loan truyền trong thành phố không phải vô căn cứ. Nhưng y không thúc ép
tôi nói rõ kho báu ở đâu, mà chỉ nói tiếp:
- Ngài Abuncaxem thân mến, xưa nay tôi vẫn xử sự với mọi người như một
con người có văn hoá. Ngài hãy biếu cho tôi một món quà xứng đáng để tôi
giữ kín giùm điều bí mật, và tôi sẽ để ngài yên ổn.
- Ông cần bao nhiêu?- tôi hỏi lại.
Viên cảnh sát đáp:
- Tôi chỉ cần mười đồng xơcanh vàng mỗi ngày.
Tôi nói:
- Như vậy quá ít. Tôi sẽ cho ông một trăm đồng xơcanh mỗi ngày.
Nghe nói, viên Đaroga mừng rơn:
- Thưa ngài, tôi cầu trời cho ngài bắt được một nghìn kho tàng. Ngài hãy
yên tâm tận hưởng tài sản của ngài. Chẳng bao giờ tôi quấy rầy ngài về
chuyện sở hữu nữa đâu.
Tôi đưa cho y nhận trước một món tiền lớn, thế là y ra về.
Ít lâu sau, quan tể tướng Apbunfata cho người tìm tôi. Ông mời tôi vào
phòng làm việc và bảo:
- Hỡi chàng trai trẻ tuổi kia, ta vừa biết anh phát hiện một kho báu. Anh rõ
rồi đó, một phần năm của cải bắt được thuộc về Thượng đế, anh phải chia
phần ấy cho nhà vua. Vậy thì anh hãy chia ra một phần năm đi, bốn phần
còn lại anh yên tâm làm chủ.
Tôi đáp:
- Trình tể tướng, tôi xin thú thật với ngài là tôi quả có bắt được một kho
tàng, đồng thời tôi cũng xin thề độc trước Thượng đế là Đấng đã sáng tạo
ra ngài cũng như sáng tạo ra tôi, là cho dù tôi có bị phân thây làm bốn