Một đêm đầu tháng 3 năm 1077, Quách Quỳ đột ngột hạ lệnh lui
binh. Quân Tống hốt hoảng chen lấn nhau mà đi. Thế là cái
mộng nhà vua Tống tha thiết trông ở Quỳ: “Sau khi bình định xong
Giao Chỉ, hãy đặt thành quận huyện mà cai trị” đã tan thành mây
khói. Vàng tốn 5.190.000 lạng. Quân đi 10 vạn, về chỉ còn 23.400.
Một vạn ngựa lên đường, chỉ còn 3.174 con trở lại. 20 vạn phu, đã
chết mất quá nửa; non nửa còn, đều ốm. Kiểm lại chỉ thấy cướp
được vỏn vẹn có châu Quảng Nguyên, Tư Lang. Trong đó, Quảng
Nguyên được vua Tống mê nhất. Châu này có núi Ngân Sơn (nghĩa
là Núi Bạc) có mỏ đồng Tụ Long. Vàng, bạc, đồng, chì, thiếc...
đều phong phú. Chả thế mà vua Tống cứ dặn đi dặn lại Quỳ “hãy
sung công của cải”, vì “nghe nói vùng khê động có nhiều của quý”.
Cho nên, khi hai bên vừa ngưng chiến, vua Tống vội đổi Quảng
Nguyên thành châu huyện Tống, gọi là Thuận Châu, xem ngang
hàng với Ung Châu. Tống cử viên võ quan có nhiều công trạng ở
vùng này là Đào Bật sang làm tri châu. Lại sai 17 tướng chỉ huy ở các
xứ Hồng Châu đến tăng cường phòng thủ. Lại xuống chiếu cho
viên quan cao cấp là Viên - ngoại - lang Tất Trọng Hùng đến coi
việc đặt lò luyện vàng bạc. Chúng nhất định giữ bằng được, không
chịu nhả Quảng Nguyên.
Nhưng Lý Thường Kiệt cũng không chịu mất Quảng Nguyên,
nhất định đòi bằng được. Ông chuyển quân vào Quang Lang, phao
tin sẽ dùng vũ lực đánh Quảng Nguyên. Đào Bật kiên gan, cố thủ,
bảo quân tướng chớ khiêu khích, sợ Lý Thường Kiệt vin cớ tấn công.
Lý Thường Kiệt một mặt dùng binh uy hiếp, mặt khác xoay sang
dùng lối ngoại giao để đòi lại.
Đầu năm 1078, Đào Tông Nguyên được lệnh đi sứ Tống, mang
theo năm voi lớn để làm quà giành đất. Việc Lý Thường Kiệt bất
ngờ đốt phá Ung Châu mấy năm trước vẫn còn làm vua tôi nhà