Tống giật mình, kinh sợ. Lần này đón sứ bộ ta dẫn voi tới kinh sư,
vua Tống cũng không khỏi e ngại, mới ngầm căn dặn bề tôi:
- Sứ Giao tiến tới kinh. Vì chúng mới cướp ta, nên phải lo đề
phòng. Khi còn ở dọc đường cũng như khi tới kinh, hễ chúng ra vào
phải cắt người giám sát. Vậy phải viết thư cho ti kinh lược Quảng
Tây và cho các viên hộ tống hãy mau mau trình báo.
Sứ ta tới Biện Kinh, đưa voi biếu, xin đòi lại Quảng Nguyên và Tư
Lang. Vua Tống hỏi ý kiến Triệu Tiết. Tiết xui vua không trả. Vua
Tống cũng muốn thế. Tham của muốn giữ. Thật ra vua tôi Tống
trong bụng vẫn kinh Lý Thường Kiệt. Cho nên, đối với sứ bộ Đào
Tông Nguyên. Tống tiếp đãi tử tế, sợ ta phật ý, sinh sự. Vua Tống
đã gọi các viên quan đón tiếp đến bảo rằng:
- Nhà ở, nơi ăn yến của phái bộ Giao Chỉ phải có nơi chốn riêng
biệt. Gặp ngày sóc vào triều, phải để phái bộ Giao Chỉ đứng ở phía
đông. Gặp ngày vọng thì đón vào điện Thuỳ Củng. Ngủ và đãi yến thì
sứ Giao ở điện Đông Đoá.
Ý vua tôi Tống muốn dây dưa không trả. Nhưng tình hình biên
thuỳ Lý - Tống bấy giờ đang có nhiều khó khăn, bối rối. Một
mặt, Lý Thường Kiệt xui dân địa phương nổi lên khởi nghĩa ở Quảng
Nguyên. Các doanh đồn, kho, trại Tống ở Ung Châu, Liêm Châu và
ở
các trại Vĩnh Bình, Thái Bình cứ đua nhau mà cháy. Rất nhiều
lương thực, khí giới bị thiêu huỷ. Hoả tai, bệnh dịch luôn luôn. Quân
lính náo động, dân gian lo sợ. Mặt khác, ngoài tình hình đêm ngày
căng thẳng thì khí hậu dữ độc, không hợp với người phương bắc làm
quan quân Tống ở Quảng Nguyên ốm đau nhiều. Các quan lớn
nhỏ như Đào Bật, Vương Cảnh Nhân, Trương Cát, Dương Nguyên
Khanh, Lưu Tử Dân... đều lần lượt chết hết. Quân đồn trú mỗi
năm phái đến 3.000, mà mười phần chết đến năm, sáu. Quân
Tống đào ngũ hàng đoàn. Có lúc, cả hai quân bỏ doanh trại trốn