trên cổ, nâng lên trán cầu nguyện rồi tròng vào cổ thầy Vĩnh, đặt ngay ngắn
trước ngực. Thế rồi thầy thảo thật nhanh một lá bùa vàng vẽ hình người lên
giấy vàng rồi dán lên mặt thầy Vĩnh. Thầy Lộc bắt đầu lẩm nhẩm chú và
điểm huyệt thêm một lần nữa.
Đất và ngọc này, thầy Lộc đã lặn lội mấy ngày lên tận Huế để tìm. Thầy
không biết rõ Vĩnh định làm gì nhưng thầy hiểu rằng cần mở trận địa diệt
Thủy thì phải có nguyên tố Thổ và thầy đi tìm đất thiêng. Thầy đã lặn lội
tới những bờ sông hoang dại nhất của con sông Hương, nơi chưa có thành
thị xâm lấn để lấy lên những thổ nhưỡng nguyên thủy nhất. Sau đó thầy đã
tới thăm chùa Thiên Mụ để xin mượn ấn. Chùa Thiên Mụ nằm ngay bên bờ
sông Hương, nơi nhiều âm khí, ma da quỷ nước rất nhiều. Chính nhờ có ấn
đó mà chùa Thiên Mụ giữ được sự trong sạch, thanh nghiêm, không bị
nhiễm tà khí của con sông, vẫn sừng sững ở đó như một biểu tượng của
kinh đô Huế. Phải mất mấy ngày thuyết phục và đánh đổi nhiều thứ, thầy
Lộc mới có thể mượn chiếc ấn ngọc về. Có ấn ngọc thì uy lực của người
thầy pháp sẽ được nâng cao lên nhiều khi đối đầu với ma da.
Khi vừa về tới đảo, thầy Lộc đã nhận ra Vĩnh đã triển khai trận địa diệt
quỷ, lặn cả xuống nước để tru diệt.Thế nhưng khi đứng trên bờ ông nhận ra
trong trận địa chưa có ánh sáng hắt lên của Thổ trong đó, nguyên tố thiết
yếu và rất quan trọng. Trong lúc bước lên thuyền, do va vấp mà bọc đất
thầy Vĩnh đem theo đã bị rơi xuống sông. Thầy Lộc bèn hơ đám đất thiêng
trên lửa cùng hương thảo mộc để cho đất nóng rẫy lên. Sau đó thầy bọc vào
tấm vải đỏ và lao xuống sông. Vừa hay lúc thầy Vĩnh cần ứng cứu.
Sau vài lần điểm huyệt, thầy Vĩnh vẫn không thấy tỉnh lại. Ánh sáng của
những luân xa gần như đã tắt hẳn. Chẳng nhẽ ông ấy sẽ ra đi mãi mãi như
thế này sao? Thầy Vĩnh ngấm nước sâu, âm khí nhiều, dương khí không
còn bao nhiêu nữa. Thầy Lộc ôm đầu nói: “Hỏng rồi, dương khí yếu quá
không thông kinh huyệt được!”
Hiệp run run nói: “Trước khi mở trận địa này, anh Vĩnh có nói với tôi
là… anh đã bỏ đồng tiền thiêng được trì chú theo mình hai mấy năm bảo vệ