Lời qua tiếng lại. Cả toa tàu cùng đổ xô đến. Chiếc va ly bị giằng khỏi
tay Nghĩa. Anh chồm tới giật lại, một tay anh giật mạnh, đứt hết hàng cúc
áo.
- Có giỏi thì bắn tao đây, chứ đừng hòng mở chiếc va ly ấy ra đâu. Hài
cốt của bạn tao trong đó. Hơn mười năm nay nó bị ném lăn lóc trên rừng...
Hành động dữ dằn và quyết liệt của Nghĩa đã làm cho các nhà chức trách
phải dừng tay lại. Nhưng suốt từ đó cho tới lúc về tới ga cuối cùng, người
Nghĩa rũ ra như một kẻ mất hồn.
Chờ tới ba ngày sau, khi mà Nghĩa và Mận đã bí mật giấu chiếc va ly hài
cốt ngay cạnh đầu giường anh, rồi cũng lại bí mật mua về một chiếc tiểu
sành, chuyển hài cốt từ va ly sang, họ lặng lẽ đào một chiếc huyệt nhỏ ở
ngay góc vườn hoa trong nghĩa trang thành phố. Lúc ấy là nửa đêm một
đêm trăng mờ. Lợi dụng phiên trực của mình, Nghĩa dùng xẻng và xà beng
bình tĩnh đào một cái huyệt sâu ngang ngực người. Chiếc xẻng quân dụng
năm nào giờ mới đắc dụng. Bằng kinh nghiệm của một người lính, Nghĩa
chỉ đào trong hơn tiếng đồng hồ. Chiếc huyệt vừa xinh như một chiếc hố
chiến đấu cá nhân. Hôm ấy, Mận là một người đàn bà hết sức khác lạ.
Trong đôi mắt chị vừa phảng phất nỗi buồn của người đàn bà góa trong
ngày cải táng cho chồng, vừa ánh lên vẻ rỡ ràng, náo nức của người phụ nữ
vào tuổi hồi xuân. Buổi chiều chị nhờ đứa em lai xe máy từ trong quê ra.
Mận đun một siêu nước trầm rửa từng đốt hài cốt chồng xếp vào chiếc tiểu
sành. Chị đun nước thơm tắm gội mình sạch sẽ, mặc bộ đồ mới ướp nước
hoa thơm phức. Chờ cho Nghĩa đào huyệt xong, chị cùng anh đưa chiếc
tiểu sành xuống huyệt, lấp đất. Nấm mộ không cao hơn vạt đất xung quanh,
bởi họ không muốn cho ban quản lý nghĩa trang phát hiện ra. Nó chỉ hơi gồ
lên một chút. Chính giữa mộ, họ đã đào sẵn một cây hồng nhung đang trổ
hoa trồng lên phiến đá có khắc tên và ngày tháng năm sinh, năm mất của
Họp.
Đốt một bó hương lớn, cả Nghĩa và Mận đều kính cẩn quỳ xuống khấn
thầm. Mận lặng lẽ khóc. Nghĩa trầm tư như hóa đá. Chợt Mận òa lên, giọng