mình bỏ quách nó đi và hạnh phúc sẽ đến về ta.” Niềm vui vỡ òa trên môi,
anh đứng dậy trong lòng thuyền, vươn đôi tay về phía Nàng tiên cá. “Ta sẽ
từ bỏ linh hồn mình,” anh nói, “nàng sẽ là cô dâu và ta là chú rể, dưới đáy
đại dương chúng ta sẽ được bên nhau, nàng sẽ hát cho ta nghe, mọi điều
nàng muốn ta nguyện làm theo, không gì có thể chia lìa đôi ta.”
Nàng tiên cá bật cười vui sướng và giấu khuôn mặt sau đôi tay.
“Nhưng làm thế nào để từ bỏ linh hồn mình?” chàng ngư phủ thốt lên,
“Hãy nói cho ta biết phải làm sao, và ta nhất định sẽ làm.”
“Chao ôi! Em cũng không biết,” Nàng tiên cá nói: “Thủy tộc chúng em
không có linh hồn.” Rồi nàng lặn sâu xuống biển với ánh mắt sầu thảm nhìn
chàng.
Sáng sớm hôm sau, khi mặt trời chưa nhô lên khỏi đỉnh đồi quá một sải
tay, chàng ngư phủ đến nhà cha xứ và gõ cửa ba lần.
Cậu lễ sinh ngó qua khung cửa xép, khi nhìn thấy chàng, cậu kéo then
cửa và nói, “Mời vào.”
Chàng ngư phủ bước vào, rồi quỳ xuống sàn nhà còn thơm mùi gỗ,
thưa với cha xứ đang đọc to quyển Kinh thánh rằng, “Thưa cha, con đang
yêu một nàng con gái thủy tộc, nhưng linh hồn của con đang ngăn cản mong
muốn của con. Xin hãy dạy con cách từ bỏ linh hồn mình, bởi quả thực con
không cần đến nó. Linh hồn thì giá trị gì với con kia chứ? Con không nhìn
thấy nó. Không chạm được vào nó. Không cả biết đến nó.”
Cha xứ đấm ngực kêu lên, “Chao ôi, chao ôi, con điên mất rồi, hoặc
con đã nuốt nhầm loại cây cỏ độc nào, bởi linh hồn là phần cao quý nhất của
con người, được Chúa ban cho và chúng ta phải trân trọng nó. Không có gì
quý giá hơn linh hồn con người, không có gì trên trần gian sánh được với
nó. Nó đáng giá bằng tất cả vàng trong thế giới này, còn quý hơn cả các viên
hồng ngọc của những ông vua. Do đó, con của ta, đừng bao giờ nghĩ đến
việc này nữa, bởi đó là một tội ác bất khả tha thứ. Còn với loài thủy tộc,
chúng là bọn vô đạo, cả những kẻ giao du với chúng cũng là kẻ vô đạo.