Từ khi ấy, dè chừng những chiếc khăn tay thêu gia huy, chẳng nói chẳng
rằng, chàng lại nhét chiếc khăn đã nhặt vào túi bà Bonacieux. Nhưng vào
lúc đó, bà Bonacieux cũng đã tỉnh lại. Người đàn bà mở mắt, nhìn xung
quanh với vẻ kinh hoàng, thấy ngôi nhà trống không và chỉ có mỗi mình
mình với người giải phóng mình. Người đàn bà mỉm cười nắm lấy tay
chàng, mà lại là nụ cười duyên dáng nhất trên đời.
— Ôi, thưa ông! - Nàng nói - chính ông là người đã cứu tôi, cho phép tôi
cảm ơn ông.
— Thưa bà, - D’Artagnan nói - tôi chỉ làm điều mọi nhà quý tộc ở địa vị
tôi đều phải làm, bà không cần phải cảm ơn tôi đâu.
— Có chứ, thưa ông, và tôi hy vọng chứng tỏ với ông rằng, ông đã
không làm phúc cho một kẻ vô ơn đâu. Nhưng vậy chứ cái lũ người mà
thoạt tiên tôi cho là lũ trộm cắp đó muốn gì ở tôi, và tại sao ông Bonacieux
lại không hề ở đây.
— Thưa bà, lũ người đó nguy hiểm hơn lũ trộm cắp nhiều, bởi đó là
những nhân viên của Giáo Chủ, còn như chồng bà, ông ấy không có ở đây
vì hôm qua, bọn chúng đã tới đây bắt ông ấy đưa vào ngục Bastille.
— Chồng tôi ở ngục Bastille ư? - Bà Bonacieux kêu lên? - Ôi, lạy Chúa!
Ông ấy đã làm gì nên nông nỗi ấy? Người chồng yêu quý khốn khổ của tôi
ơi! Ông ấy, nào có dính dáng gì?
Và một cái gì đó giống như một nụ cười ló ra trên mặt vẫn còn đầy nỗi
kinh hoàng của người thiếu phụ.
— Ông ấy làm gì ư, thưa bà? - D’Artagnan nói - Tôi tin rằng cái tội duy
nhất của ông ấy là vừa có được niềm hạnh phúc vừa mang nỗi bất hạnh
được làm chồng bà.
— Nhưng thưa ông, vậy ông biết…
— Tôi biết bà đã bị bắt cóc, thưa bà.
— Và bởi ai? Ông biết kẻ đó không? Ôi, nếu như ông biết hắn, ông hãy
nói cho tôi hay!
— Bởi một người đàn ông khoảng bốn mươi, bốn nhăm tuổi, nước da
sạm, một vết sẹo ở thái dương bên trái.
— Đúng thế, đúng thế, nhưng còn tên hắn?