là xôi trắng. Mày mời tao ăn cháo sẽ hơi thừa, mà nếu thế thì tao phải mời
mày xơi củ đậu bay!”
Tôi bắt đầu khóc.
“Thôi bình tĩnh nào anh bạn,” kẻ kia tự dưng dịu giọng. Hai người ngồi
xuống cạnh nhau ở bàn ăn “Anh vẫn là người ăn ốc, anh hiểu chưa,” gã
nhìn thẳng vào mắt tôi. “Tôi chi đổ vỏ cho gọn. Mà anh vừa đi bóc bánh trả
tiền về phải không? Mất vệ sinh quá anh ơi. Để tôi giới thiệu mấy chỗ toàn
rau sạch, dinh dưỡng hơn nhiều chứ! Anh chắc không muốn bị dính chôm
chôm.”
“Được đấy,” tôi phấn khởi hẳn lên. “Thanh kiu Vina-miu! Nhưng anh
đừng nói gì với vợ tôi nhé. Vợ tôi suốt ngày buôn dưa lê, chỉ cần thêm một
con vịt là đã có cái chợ lớn rồi. Tôi chơi mấy con gà đầu ngõ chắc chẳng
sao, nhưng bị bắt quả tang ăn rau sạch thì lại là chuyện khác ngay!”
“Sợ gì,” người ấy lại cười. “Vợ anh mà tám chuyện thì anh tám kinh
hơn!” Thấy tôi chưa hiểu lắm, gã khoác vai tôi, giải thích thêm: “Việc trả
đũa là thế mà. Vợ anh buôn dưa lê thì anh phải buôn dưa hấu”.
Lố bịch thì lố bịch, nhưng khó có thể phủ nhận truyện này nghe rất Việt
Nam. (Viết xong tôi không cảm thấy buồn mà đói). Tiếng Anh cũng có một
số cách so sánh vè ẩm thực như vậy nhưng không nhiều; tiếng Việt “tươi”
hơn gấp mấy lần. Để nhấn mạnh sự khác biệt này, tôi đã viết lại truyện này
bằng tiếng Anh, tặng những người rành cả hai ngôn ngữ.
A tale of rice and pho
Not long after getting married, I grew bored of rice. A man’s got to eat,
so i turned to pho. But for a guy like me, a good bowl of pho is hard to find.
Frustrated and hungry, I turned instead to baguettes off the Street. Little did
I know, at around the time I started on grilled chopped meat, my wife had
started on springrolls. One day I retumed home to fìnd a stranger, a man
with pepper hair and a jackfruit look, sitting at my table eating my rice.