và hỏi bằng giọng thì thầm, “Nhưng mày không bao giờ tin là tao đã chết.”
Đó không phải là một câu hỏi.
“Làm sao anh vào được trong này mà tôi không nghe thấy?”
“Tao đã ở đây từ trước. Tao lẻn lên lầu cách đây mười phút. Tao cũng ở
dưới lầu trong phòng chiến tranh của mày nữa, hay bất cứ tên nào mày gọi
căn phòng đó. Không ai để ý đến tao hết.”
“Anh mang bằng chứng tới đúng không?” Rhyme mơ hồ nhớ lại hai cảnh
sát tuần tra đẩy xe có những hộp bằng chứng được thu thập bên ngoài
trường Neighborhood và trong phòng khách sạn của mục sư Swensen.
“Đúng vậy. Tao đợi ở chỗ vỉa hè. Tay cảnh sát đó tới với mấy cái hộp. Tao
chào hắn và đề nghị giúp đỡ. Không ai lại ngăn mày nếu mày mặc đồng
phục và có vẻ hành động có chủ đích.”
“Và anh trốn ở đây, ẩn mình sau một tấm lụa có màu của những bức
tường.”
“Mày đã biết trò đó, đúng không?”
Rhyme nhíu mày, nhìn đồng phục của gã. Nó có vẻ là đồ thật, không phải
đồ biểu diễn. Nhưng trái với quy định, không có bảng tên trên ngực áo. Trái
tim anh bỗng chùng xuống. Anh biết bộ đồ đó ở đâu ra. “Anh đã giết anh ấy,
Larry Burke… Anh đã giết anh ấy và ăn cắp quần áo của anh ấy.”
Gã phù thủy liếc xuống bộ đồng phục và nhún vai. “Ngược lại. Ăn cắp bộ
đồng phục trước,” giọng gã thì thầm, lơ lửng. “Thuyết phục hắn là tao muốn
hắn trần truồng để cho tao có cơ hội trốn thoát. Hắn đã giúp tao không phải
lột đồ sau đó. Rồi tao mới bắn hắn.”
Nghĩ lại, Rhyme nhớ rằng anh đã cân nhắc nguy cơ Gã phù thủy lấy được
bộ đàm và vũ khí của Burke. Tuy nhiên, anh đã không nghĩ tới việc gã dùng
đồng phục của anh ta như một bộ đồ thay nhanh để tấn công những kẻ đuổi
theo. Anh thì thầm hỏi, “Thi thể anh ấy ở đâu?”
“Bên West Side.”
“Ở đâu?”
“Tao nghĩ tao sẽ giữ kín chuyện đó cho mình. Sẽ có người tìm ra hắn
trong một, hai ngày nữa. Ngửi thấy hắn. Thời tiết đang ấm.”