Ông lão đưa tay lên miệng phà hơi ấm vào con vật nhỏ bé mà lão không
sao thấy được. Lão nói bằng tiếng Armenia, Ráng sống đi con, chẳng bao
lâu nữa là đến hè rồi. Hãy sống, lanh lợi và dễ thương.
Chúng tôi vào bếp nơi căn nhà nhỏ của lão và trong khi phà hơi ấm vào con
chim, lão bảo tôi làm những gì.
Để một thìa mật lên bếp ga, xong rồi đổ vào tay ta, nhưng phải chắc chắn là
đừng nóng quá đấy nhé.
Tôi làm xong việc đó.
Sau một lát con chim ruồi tỏ ra dấu hiệu sống lại. Cái ấm áp của căn phòng,
hơi mật nóng và chà, ý chí và tình thương của ông lão nữa chứ.
Chả mấy lúc ông lão cảm thấy được sự thay đổi trong tay mình, một lát sau
con chim ruồi bắt đầu ăn từng giọt mật.
Ông lão nói, Nó thế nào rồi cũng sống lại. cứ ở đó mà xem.
Sự thay đổi thật là ngoài sức tưởng tượng. Ông lão dịu dàng mở bàn tay, và
tôi chờ đợi một con chim bất lực kia bay vọt lên khỏi tay lão, lơ lửng giữa
không gian, nó làm cho tôi vừa sợ vừa cảm động đến muốn chết – và đúng
là những gì đã xảy ra như vậy. Đời sống mới của chú chim thật tuyệt diệu.
Nó bay vòng quanh trong căn bếp nhỏ, sà bên ô cửa, chao nghiêng ngọn
lửa, lơ lửng, nó hứng hóng như thể trong trời đang là mùa hè không bằng
và cả đời nó như chưa bao giờ cảm thấy hạnh phúc hơn.
Ông lão ngồi xuống chiếc ghế đơn sơ, mắt mù nhưng đầy chú ý. Lão chăm
chú lắng nghe và cố nhìn, nhưng dĩ nhiên lão không sao thấy được. Lão vẫn
hỏi về con chim, nó như thế nào, nó có tỏ ra yếu lại không, tinh thần nó làm
sao, và nó có vẻ gì nôn nao không, và tôi tường thuật chi tiết các pha nhào
lộn của con chim cho lão nghe.
Khi con chim tỏ bẻ bồn chồn và muốn thoát ra, ông lão nói, Mở cửa sổ cho
nó bay đi.
Tôi hỏi, Liệu nó có sống được không?
Lão nói, giờ thì nó sống rồi và muốn bay đi. Mở cửa sổ ra.
Tôi mở cửa sổ, con chim ruồi bay quanh quẩn, như cảm biết cái giá lạnh
bên ngoài, nhấp nhứ và lơ lửng bên trong cửa sổ nhảy nhót lối này lối kia
và thoắt cái biến mất tăm.