sầu đời vừa trở về sau các cuộc hành quân. Sau Vùng I (từ Đà Nẵng đến
Quảng Trị), Vùng II chiến thuật, đặc biệt là khu vực Cao Nguyên là chiến
trường thường xuyên xảy ra đụng độ, lính tráng thường xuyên bị ném vào
các chiến dịch qui mô. Để quên cái chết luôn cặp kè bên nách, lính tráng
vùng chiến thuật này đều bạt mạng, hết sức vô kỷ luật và nhanh chóng ngã
vào vòng tay đê mê của ma túy. Nghề bán thuốc phiện nhanh chóng giúp
Năm Vĩnh giàu nứt đố đổ vách. Có tiền, Vĩnh vãi ra mua chuộc đàn em
trong các sắc lính không hề tiếc. Dĩ nhiên, ai trả lương cao, người đó được
quyền sai bảo. Những tên du đãng mặc áo lính nhanh chóng trở nên ngoan
ngoãn nghe lời Năm Vĩnh hơn nghe lệnh chỉ huy - những kẻ chỉ có thể cho
chúng chưa đầy một phần mười số lương “anh Năm” quăng ra, lại còn hay
cố tình bớt xén.
• • •
Giống như cây số 9 Mỹ Ca, khu vực ngã ba Diệp Kính dưới chân căn cứ
Hàm Rồng những năm 1970-1972 cũng là địa điểm tập trung ăn chơi của
các sắc lính đóng cạnh thị xã Pleiku. Ở đó có một rạp chiếu phim, một dãy
quán xá và hơn chục nhà thổ, lúc nào cũng đầy nhóc những tên lính người
Việt giày trận đứt tung dây, áo quần đầy bụi đất đỏ, kéo lê những khẩu
AR15, M16. Thay vì nói chuyện, chúng văng tục. Thay vì vỗ tay tán
thưởng giọng ca, chúng chĩa nòng súng lên trời và quạt nguyên băng… ở
đó, lính tráng tên nào cũng rượu bia say bí tỉ mà không cần phải đụng đến
ly… Ngoài những bộ quân phục, không một người dân nào dám bén mảng
đến khu ngã ba Diệp Kính vào buổi tối nếu họ không thuộc một trong hai
loại: ma cô hoặc gái điếm phục vụ tại các quán xá.
Dù hung tợn, các sắc lính ở đây vẫn cứ phải dè chừng một cái tên: Năm
Vĩnh - “Hùm xám miền Trung”. Băng của hắn thuộc loại “đụng là chạm,
chạm là nổ”. Vào quán, ăn nhậu xong, thay vì trả tiền, hắn ngoắt chủ quán
tới và đưa cho họ một cái ly cối, trong ly là… một quả lựu đạn đã rút chốt,
loại “chấm đỏ” M26 hoặc M67, rút chốt ném là nổ ngay. Sau cái ám hiệu
ấy, cả đám cứ việc bỏ đi ung dung, không một chủ quán nào dám hó hé nửa