Nhã Như đi ngủ sớm. Từ khi rời Bắc Kinh, hắn chưa được ngủ liền
mạch một giấc dài. Chuyến đi sang châu Âu, rồi chuyện tàu xe phức
tạp đến thành phố nhỏ nằm ở miền Bắc Thụy Điển, rồi sau đó lại phải
xuống Helsingborg, nơi hắn đột nhập vào căn nhà của Birgitta Roslin
và đã nhìn thấy một mảnh giấy bên cạnh máy điện thoại, trên đó có
những chữ cái được viết ra một cách dứt khoát “Luân Đôn”. Hắn nói
với viên phi công lập tức xin giấy phép bay. Hắn đoán Birgitta Roslin
sẽ tìm gặp Hà ở Luân Đôn. Và đúng như dự đoán, hắn đã nhìn thấy bà
đến ngôi nhà đó, do dự một lúc rồi tạt vào tiệm cà phê bên kia đường.
Hắn ghi lại một vài chi tiết vào sổ nhật ký, tắt đèn và một lúc sau đã
chìm vào giấc ngủ.
Ngày hôm sau bầu trời Luân Đôn phủ đầy những đám mây nặng nề.
Nhã Như thức dậy như thường lệ vào lúc năm giờ sáng, nghe thời sự
Trung Quốc qua làn sóng ngắn radio. Hắn tìm hiểu thông tin về những
biến động chứng khoán trên máy tính, tiến hành các cuộc trao đổi với
hai giám đốc trong công ty về các dự án đang tiến hành, rồi sau đó tự
làm bữa ăn sáng đơn giản, chủ yếu là hoa quả.
Hắn rời căn hộ lúc bảy giờ, đút vào túi áo chiếc túi lụa nhỏ. Kế
hoạch của hắn có một ẩn số: hắn không biết Birgitta Roslin ăn bữa
sáng vào lúc mấy giờ. Nếu như khi hắn đến khách sạn mà Roslin đã ăn
sáng rồi, thì buộc hắn phải lùi việc này sang sáng hôm sau.
Hắn đi đến quảng trường Trafalgar, đứng lại một lúc nghe người
đàn ông chơi đại vĩ cầm trên đường phố. Hắn ném vài đồng tiền xu
vào chiếc mũ, rồi tiếp tục đi. Hắn rẽ vào đường Irving rồi từ từ đi về
phía khách sạn.
Hôm nay đứng ở quầy lễ tân là một người đàn ông mà hắn chưa gặp
lần nào. Hắn đến bên quầy lấy một tấm thiếp của khách sạn, và tranh
thủ liếc nhìn ngăn tủ nhưng không thấy tờ giấy trắng ấy nữa.
Cánh cửa vào phòng ăn điểm tâm để ngỏ. Hắn lập tức nhận ra
Birgitta Roslin. Bà ngồi bên chiếc bàn gần cửa sổ và hình như cũng