tay cầm mác, tay kia xòe ra che lấy đầu để đỡ bớt những hạt nước mưa rất
lạnh khỏi rơi xuống đầu. Phải kiếm một ngọn lá cọ mà che nếu không thì
ướt hết. Cậu rẽ lên mái vùng, chỗ có những bụi cọ, chặt một tàu cọ, khoác
lên lưng, rồi buộc túm hai góc lá lại làm cái áo tơi. Cậu lại chặt tấm thứ hai,
cắt các rìa lá đi, rồi che lên đầu. Cậu đi xuống dốc rừng theo trí nhớ để tìm
đến bãi cỏ nước. Trời mưa mỗi lúc một nặng hạt, gió vấn vít, sấm chớp vẫn
nổ ầm ầm. Khu rừng tối sầm lại. Cậu vẫn tiếp tục dấn bước, trong bụng vô
cùng hoang mang, lo sợ. Vừa đi vừa tưởng tượng ra bao cảnh ngộ hãi hùng:
cứ đi như mò mẫm trong đêm, ngộ nhỡ có con hổ, con báo nào tránh mưa
bên một gốc cây lao ra thì nguy; cũng có thể giẫm phải rắn, rết trên đường
đi, và trăn nữa, con trăn nằm bên đường, vô phúc giẫm phải, nó quấn chặt,
nâng lên đập xuống cho mềm rồi mới nuốt. Bất giác cậu cất tiếng gọi lẫn
trong nước mắt và nước mưa.
- Chú Bào ơi! Chú Tín ơi!
Nhưng mưa gió, sấm sét gầm rú thế này các chú làm sao mà nghe thấy
cậu gọi. Biết vậy nhưng Dũng vẫn cứ gọi. Vừa gọi, cậu vừa bước gấp,
mong sao tìm thấy bãi cỏ nước. Nhưng cậu đi đã lâu, có lúc vừa đi vừa
chạy vẫn không thấy tăm hơi bãi nước đâu cả, mà phía trước cũng không
thấy có một màn sáng nào dù là nhỏ chứng tỏ rằng ở đấy có một bãi quang.
Dũng vẫn cứ cắm cúi đi, vừa đi vừa hết gọi các chú thợ săn, lại gọi chó.
Mưa lạnh. Bầu trời trở lại quang đãng, nhưng rừng cây vẫn tối mịt. Một
cảm giác kinh hoàng cực độ ập đến với cậu: trời tối rồi! Cậu đã lạc đường.
“Lạc đường nắm đuôi chó”, người ta bảo thế. Nhưng có con chó nào ở đây
đâu? Dũng nghĩ đến những con chó. Giá có con Khoang ở đây, dù nó
không dắt được Dũng về trại thì cũng bớt cô quạnh, ôi, cậu hơi có chút hy
vọng mỏng manh, giá bỗng dưng gặp lại con Sói Lửa thì cho dù có lạc
đường cậu cũng không sợ. Nhưng hy vọng mỏng manh này tan nhanh càng
làm cho nỗi thất vọng, nỗi cô đơn trong cậu tăng lên. Bởi nếu có con Sói
Lửa và con chó còn nhớ tới cậu thì cả ngày hôm nay nó đã tìm đến với cậu