Khoảng một tá trái phá nổ tung xung quanh bể nước Xanh-Xuynpit,
mảnh đạn khét lẹt bắn tới tận đế giầy chúng tôi.
Một bóng thầy tu đàng sau một tấm màn. Nếu các chiến sĩ Công xã
đang đi với tôi mà trông thấy thì hắn sẽ mất mạng!
Không! Anh em không trông thấy!… Thôi ta đi nhanh lên.
Cái phố này hoang vắng và ảm đạm làm sao, chỉ thấy đầy những mảnh
gang bắn trước mặt và đàng sau chúng tôi như những con chuột chạy chui
vào cống.
Các nhà đều đóng kín. Tất cả những mặt nhà im ỉm ấy tưởng như
những bộ mặt lớn của người mù.
Ở một góc tường, một người mù thật sự, với con chó ở chân, đang van
xin thảm hại:
- Lạy ông, lạy bà, làm phúc!
Tôi biết người này từ ba chục năm nay. Anh ta đến đây lúc tóc còn
đen; bây giờ tóc đã bạc. Hình như ngày mồng 3 tháng Chạp 1851 anh ta
vẫn ở chỗ này, lúc Răng, Actuya Acnun và tôi, chúng tôi kéo tới chiếm
chính tòa Thị chính này, nơi anh em ta đóng hôm nay – thêm bọn phản bội
nữa.
Một trái bom khác, những mảnh bom khác nóng bỏng và khét lẹt.
- Làm phúc, ông ơi!
Ôi chao! Lão ăn mày, tay không rời chiếc đĩa gỗ, ngay dưới đạn đại
bác! Chiếc máy lắp vì sự ươn hèn có vẻ thản nhiên của một người anh
hùng! Mà tiếng kêu thổi ra từ cuống họng, đơn điệu giữa cơn bão táp của
con người ngày, không thương xót trong cuộc đấu tranh tàn nhẫn này!
Lão vẫn đứng kia, lưng tựa cột nhà thờ, như một pho tượng – tượng
của Tàn phế và của Bần cùng – sừng sững giữa một thế giới đã mơ ước
chữa khỏi mọi vết thương và giải phóng người nghèo!
Người ta cho tiền lão! Những người ra trận ném tiền đi và ăn xin đạn
dược.