kẻ giang hồ đã trông thấy vực thẳm, tôi đã cứu thoát thói ươn lười hoặc nhà
tù cả đám thanh niên đang chạy tới đó, bằng con đường hẻm mà Muyêcgiê
đã phủ hoa tử đinh hương ở hai bên!
Bao giờ cũng thế!
Chính tôi, tôi cũng có thể lăn vào đấy!
Tôi rùng mình, khi nghĩ tới chuyện đó – ngay trong tia sáng niềm vinh
quang chớm nở của tôi!
Niềm vinh quang chớm nở của tôi? Tôi nói để vây vo đôi chút, chứ,
thật tình, tôi chẳng thấy bản thân có gì thay đổi, từ khi tôi đọc báo thấy nói
có một nhà văn trẻ mới ra đời, và sẽ đi xa.
Hôm diễn thuyết tôi đã xúc động nhiều hơn; người tôi lay chuyển khác
thường những ngày tôi được nói chuyện với nhân dân. Lúc đó, từng phút
từng phút, tôi phải truyền xúc động vào những trái tim đang phập phồng ở
trước mặt tôi kia; muốn nghe tiếng đập của những trái tim đó tôi chỉ cần
nghiêng đầu xuống, tôi có thể thấy lời nói của tôi rực cháy trong những con
mắt đang chòng chọc nhìn vào mắt tôi, với những ánh nhìn mơn trớn tôi,
hoặc hăm dọa tôi… thật cũng gần như một cuộc giao chiến bằng vũ khí!
Còn những tờ báo nằm trên mặt bàn của tôi kia – như những chiếc lá
héo! – chúng không rung chuyển và chẳng la hét!
Vậy đâu là tiếng bão tố mà tôi ưa chuộng?
Có lúc tôi tự thấy xấu hổ nữa, khi nhà phê bình chỉ nêu lên và khen
ngợi bút pháp của tôi, khi người ta không phơi bầy được cái vũ khí che giấu
dưới những nếp đăng-ten của lời văn như lưỡi gươm của Asiơ ở Xyrôx.
Tôi sợ tỏ ra là hèn đối với những ai, ở những câu lại bộ của kẻ khố
rách, đã nghe tôi hứa rằng ngày nào thoát khỏi cảnh đói rách lem luốc và
khỏi bóng tối của đêm đen, tôi sẽ nhảy xổ vào họng kẻ thù.
Chính kẻ thù đó hôm nay đang ca ngợi tôi.
Thật ra, tôi thấy khó chịu hơn là thú vị, khi nhận lời chào hỏi của
những kẻ mà tôi khinh bỉ.