XII
Một số người đã tới tìm tôi, và nhân danh tư tưởng cách mạng, đã
buộc tôi ra tranh cử nghị viện với Juyn Xi-mông. Tôi đã chẳng từ chối.
Thằng điên tội nghiệp!
Chà! Những ai ngỡ tôi nhận lời vì kiêu ngạo, vì muốn được rạng mặt
chẳng biết tôi đã tái mặt, đã rung mình đến thế nào khi nghĩ tới cuộc chiến
đấu mà tôi sắp lao vào!
Nhưng vì người ta đã gọi đến tôi, tôi sẽ không lùi bước.
Vậy tôi sẽ nói gì với khu ngoại ô Ăng-toan? Với bà con ở Sa-ron, với
những người vận áo blu-dơ ở Puy-tô, tôi sẽ ăn nói thế nào? – bản thân tôi
sắp ném lên bàn cân những lý thuyết chưa chín hẳn, mà tôi chẳng lúc nào
rảnh để cân nhắc trong bàn tay kẻ bất phục tùng của tôi.
Tôi chưa bao giờ có đủ tiền để mua các tác phẩm của Pru-đông. Tôi đã
phải mượn từng cuốn rời rạc, để đọc vào ban đêm.
May sao còn có Thư viện đó; và thỉnh thoảng tôi đã thò mũi và nhúng
trái tim vào tận nguồn. Nhưng tôi đã phải uống hộc tốc và sặc sụa, vì tôi có
việc khác phải làm ở phố Rit-sơ-li-ơ hơn là nghiên cứu công lý xã hội.
Tôi cần bứt ra từ lòng sách cái mầm của những bài báo để kiếm sống,
và ông chủ tự vị từ chối không nhận bài khi chúng có mùi triết lý hiếu
chiến hoặc bình dân. Thế mà chuyện đó, xảy ra đôi lần, khi tôi đã nuốt một
ngụm của Pru-đông – thế là lăn trên trang giấy của tôi những giọt đỏ lòm.
Vậy là tôi mới chỉ biết một nửa những điều cần phải biết, mà cũng
chưa hẳn! Tôi lại còn có cơ hội bị một cuộc thất bại lố bịch, tôi chẳng là
một kẻ dốt nát muốn chạm trán với thế giới già đời, một kẻ tập nghề định
chống lại thợ cả, một gã lính mới táo gan đưa ngọn cờ vào thật sâu!
Không khéo trượt chân, ngã lăn từ trên xuống dưới cầu thang… chẳng
khác gì những cô gái chửa hoang không muốn cho ai biết lỗi lầm của mình.