phần Wilbur Mercer,” ông ta nói gần như không nghe thấy. Rồi ông ta chửi
thề, một tràng tục tĩu mà Isidore tưởng như kéo dài hẳn một phút. “Con
mèo này,” Sloat cuối cùng cũng nói, “không phải đồ giả. Tao đã biết sẽ có
lúc chuyện này xảy ra. Và nó chết rồi.” Ông ta nhìn chằm xác con mèo và
tiếp tục chửi bới.
Vẫn đeo chiếc tạp dề vải buồm màu xanh đã cáu bẩn, Milt Borogrove lực
lưỡng da sần sùi xuất hiện ở cửa văn phòng. “Có chuyện gì thế?” anh ta
nói. Thấy con mèo, anh ta đi vào văn phòng bế nó lên.
“Thằng não gà, mang nó về đây.” Chưa bao giờ ông ta dùng từ này trước
mặt Isidore.
“Nếu nó vẫn còn sống, chúng ta có thể mang nó đến bác sĩ thú y thật.
Không biết giá nó bao nhiêu nhỉ. Ai có cuốn danh mục Sidney không?”
“B-b-bảo hiểm của ông không tr-tr-trả vụ này sao?” Isidore hỏi ông
Sloat. Chân hắn run run, và hắn cảm thấy căn phòng bắt đầu chuyển màu
nâu đỏ sẫm lốm đốm chấm xanh.
“Có,” ông Sloat cuối cùng cũng nói, nửa như càu nhàu. “Nhưng tao thấy
đau vì cái lãng phí đó. Mất thêm một sinh vật nữa. Mày không phân biệt
được hả Isidore? Mày không nhận thấy có gì khác nhau à?”
“Tôi đã nghĩ,” Isidore cũng thốt ra được, “người ta làm con mèo này
thực sự tốt. Tốt đến mức đánh lừa được tôi. Ý tôi là, nó có vẻ sống thật, và
làm được tốt như vậy…”
“Tôi nghĩ Isidore không thể phân biệt được đâu,” Milt nói dịu. “Với hắn,
tất cả đều sống, cả thú giả cũng thế. Hẳn là hắn đã định cứu nó.” Quay sang
Isidore, anh ta nói, “Mày đã làm gì, định sạc pin cho nó à? Hay tìm chỗ
đoản mạch trong đó?”
“V-v-vâng,” Isidore thừa nhận.
“Đằng nào thì hẳn là nó cũng quá yếu rồi, chẳng thể cứu nổi nữa. Đừng
làm khó thằng não gà nữa, Han. Hắn cũng có lý đấy chứ. Thú giả đang