hỏi bác.
- Không sao đâu cháu. - Người phụ nữ mỉm cười đáp lại. Bà ta đi đôi vớ
dày, một bên bị tụt xuống tận mắt cá. Chiếc váy của bà ta lấm lem và bị sờn ở
khuỷu tay.
- Bác sống ở đây lâu chưa ạ?
Người phụ nữ có vẻ thích thú với câu hỏi, nhưng rồi đưa mắt nhìn xung
quanh với vẻ buồn rầu.
- Bốn mươi ba năm rồi.
- Vậy là cháu hỏi đúng người rồi. - Mila nói bằng giọng thân thiện. Cô
không muốn làm bà ta hốt hoảng bằng việc hỏi thẳng xem dạo gần đây bà có
nhìn thấy anh chàng Roger Valin hàng xóm, người đã mất tích mười bảy năm
hay không. Hơn nữa, căn cứ theo tuổi tác của người phụ nữ, cô sợ làm bà ta
rối trí.
- Cháu có muốn vào trong nhà không?
Mila chỉ đợi có thế. Cô đáp luôn:
- Có ạ.
Người phụ nữ đi trước dẫn đường. Cơn gió làm cho mái tóc lưa thưa của
bà càng thêm rối.
Bà Walcott lê bước trên đôi dép lê bằng len, băng qua tấm thảm và sàn gỗ
đã cũ mòn theo một lối chính xác giữa những món đồ nội thất cồng kềnh chất
đầy các loại đồ lưu niệm: những con giống bằng thủy tinh, đồ sứ sứt mẻ,
cùng những khung ảnh lưu lại một thời đã xa. Bà bưng một chiếc khay đựng
ấm trà và hai cái tách. Mila đứng dậy khỏi ghế xalông để giúp bà đặt nó
xuống cái bàn thấp.
- Cảm ơn cháu.
- Phiền bác quá ạ.
- Không có gì đâu. Chẳng mấy khi tôi tiếp khách khứa.
Mila quan sát người phụ nữ, và tự hỏi liệu một ngày nào đó mình có đối
diện với tình trạng cô độc như thế này hay không.
Con mèo có bộ lông màu hung nằm cuộn mình trên chiếc ghế, thỉnh
thoảng mở mắt ra để thăm dò tình hình trước khi ngủ tiếp. Có lẽ đó là người
bạn đồng hành duy nhất của bà Walcott.