hoặc đứng trước một bức tường đá vững chắc và không có cửa sổ. Nếu chi
tiết này chưa đủ để làm khó việc điều tra thì thêm vào đó, các cửa sổ trong
phòng vẫn còn nguyên vẹn.
Như vậy, ngoài việc có một người đàn ông chết với một vết thương trên
ngực do bị bắn và viên đạn găm vào bức tường phía sau ông ta thì không có
dấu hiệu nào khác của tấn thảm kịch trong căn hộ. Harald Olesen nằm trên
sàn phòng khách cạnh bàn nước được dọn sẵn cho hai người. Ông đã uống
một tách và để lại dấu vân tay trên đó, trong khi tách bên phía đối diện
chưa được đụng đến. Dường như Harald Olesen đã chờ dùng cà phê và
bánh ngọt với một ai đó nhưng không có dấu hiệu gì cho biết ai đã đến
thăm ông ấy, hoặc liệu rằng vị khách mời đó có phải là hung thủ hay
không.
Phần còn lại của món thịt viên vẫn còn trên bếp, bên cạnh bồn rửa. Có
sữa, bánh mì và phô mai trong tủ lạnh cho bữa sáng hôm sau. Đài radio trên
bàn bếp vẫn cắm điện. Một đĩa hát của dàn nhạc Vienna Philharmonic nằm
sẵn sàng trên mâm quay. Rõ ràng cái chết đã đến bất ngờ trong căn hộ 3A
số 25 phố Krebs.
Đến 1 giờ sáng ngày 5 tháng 4 năm 1968, nhận thấy không còn có thể
thu thập được gì thêm từ hiện trường vụ án mạng, tôi để lại một cảnh sát
gác ở tầng hai và một người khác trên phố bên ngoài tòa nhà. Tôi cũng yêu
cầu bác sĩ pháp y gửi báo cáo cho mình sớm nhất có thể, đồng thời yêu cầu
cung cấp bản sao các hồ sơ hộ tịch và lý lịch tư pháp của mọi cư dân ở tòa
nhà 25 phố Krebs. Sau đó tôi để mọi người đi ngủ, nhưng yêu cầu họ ở nhà
buổi sáng hôm sau để sẵn sàng cho việc thẩm vấn.
Vào đêm xảy ra án mạng, tôi đã thấy rõ rằng kẻ sát nhân rất có khả năng
là một trong số những hàng xóm của người đã chết. Không dấu hiệu nào
cho thấy có một ai khác từng ở trong tòa nhà đêm hôm đó. May mắn làm
sao, tôi hoàn toàn không ý thức được mức độ khó khăn của việc tìm ra
hung thủ ở trong căn hộ nào.