12
Một năm sau khi tôi từ Dublin trở về, cô bạn cũ của chúng tôi R’lene
Dahlberg giới thiệu tôi với Roger Goodman, chủ nhiệm khoa Anh văn
trường Trung học Stuyvesant
[120]
. Ông ta hỏi tôi có muốn dạy thay khoảng
một tháng cho ông Joe Curran đang cần nghỉ dưỡng sức vì chuyện gì đấy
không. Nghe nói Stuyvesant là trường nổi tiếng nhất thành phố, một thứ
Harvard trong các trường trung học, chốn đào tạo của nhiều người đoạt giải
Nobel, của chính James Cagney
[121]
; cô cậu nào được nhận vào đây rồi thì
các trường đại học nổi tiếng nhất nước Mỹ sẽ mở rộng cửa chào đón. Mỗi
năm có tới mười ba nghìn thí sinh thi vào Stuyvesant mà trường chỉ tuyển
bảy trăm em giỏi nhất.
Nay tôi lại dạy nơi mà trước kia mình chẳng hề được là một trong bảy
trăm học sinh trúng tuyển.
Vài tháng sau, khi ông Joe Curran trở lại trường thì ông Roger
Goodman mời tôi dạy hẳn luôn. Ông ta bảo học trò mến tôi, rằng tôi dạy
sinh động, lôi cuốn, đúng là một bổ sung quý báu của khoa Anh văn.
Ngượng nghịu vì được khen, tôi cám ơn và nhận lời. Tôi tự nhủ sẽ chỉ dạy
hai năm thôi. Các nhà giáo ở thành phố này tranh nhau để được dạy trường
Stuyveant, song, tôi còn muốn hưởng đời mà. Chứ cuối ngày dạy học nào
về nhà đầu óc anh cũng ong ong tiếng ồn của đám thiếu niên, cùng những
âu lo và khát vọng của chúng. Chúng theo anh vào cả trong bữa ăn tối, rạp
xi nê, phòng tắm và tận giường ngủ.
Tôi cố không nghĩ tới chúng. Đi đi. Đi đi. Tôi đang đọc sách, xem báo,
đọc những chữ viết trên tường. Đi đi mà.
Tôi muốn làm việc gì đấy người lớn và quan trọng cơ, như họp hành,
đọc cho thư ký ghi chép, ngồi cùng các nhân vật tiếng tăm tại những chiếc
bàn họp dài bằng gỗ gụ, bay đi dự những hội nghi, thư giãn trong những
quán ăn sang trọng, lên giường với những người đàn bà khiêu gợi, thì thầm