Khi bà nhắc đến tên anh, tôi không nghĩ tới anh ngay. Anh mất đã lâu. Tôi
nhắm mắt lại và nói con đâu quen ai có tên đó, nhưng bà vẫn kiên trì. “Nó
về đây thăm nhà mình,” bà nói, kéo cái mền tôi đang đắp và lay giật cho
đến khi tôi mắt nhắm mắt mở, ngồi nhổm dậy. Bà đã sáu mươi ba, đôi khi
hơi lẫn, nên khi bà dẫn tôi ra phòng khách và bật khóc, tôi không ngạc
nhiên mấy. “Nó ở ngay đây,” bà quỳ xuống bên chiếc ghế bành bọc vải hoa
và rờ mặt thảm. “Còn ướt nè.” Bà bò tới cửa trước trong bộ đồ ngủ vải
bông, theo dấu vết đó. Khi tôi chạm vào mặt thảm, thấy còn ẩm ướt. Trong
thoáng chốc tôi giật thót người tin thật, sự im lặng của ngôi nhà lúc bốn giờ
sáng làm tôi lo ngại. Rồi tôi nghe thấy tiếng mưa rơi trên máng xối, và nỗi
sợ đang siết cổ tôi dần nới lỏng ra. Má tôi chắc đã mở cửa, bị mắc mưa nên
quay trở vào. Tôi ngồi xuống bên cạnh khi bà nép sát cửa, tay đặt trên nắm
đấm, “Má cứ hay tưởng tượng chuyện bóng gió!”
“Tao biết tao nhìn thấy gì chứ.” Gạt tay tôi khỏi vai, bà đứng dậy, sự giận
dữ lấp lánh trong đôi mắt tối thẫm của bà. “Nó lướt đi. Nó nói chuyện. Nó
muốn gặp mày.”
“Vậy anh ấy đâu hả má? Con có thấy ai đâu?”
“Dĩ nhiên mày không thấy.” Bà thở dài, cứ như tôi là đứa không hiểu được
điều hiển nhiên. “Nó là hồn ma mà?”
Từ hồi ba mất cách đây mấy năm, má con tôi sống nương tựa vào nhau. Cả
hai cùng mê câu chữ, nhưng tôi thích sự im lặng trong việc viết lách còn bà
lại thích nói. Bà thường xuyên kể cho tôi nghe những lời đồn và những câu
chuyện, loại chuyện duy nhất tôi thích là về cha tôi hồi ông còn là một
người mà tôi không biết, trẻ và hạnh phúc. Rồi đến những chuyện kinh
hoàng kiểu như chuyện về anh phóng viên, với bài học rút ra là cuộc đời
cũng giống như đám cảnh sát, thích lâu lâu lại đánh đập dằn mặt con người
ta. Sau cùng là loại chuyện ma ưa thích của bà, thứ đó bà biết nhiều, một số
là chuyện chính bà đã gặp.