phải không?”
Từ đó, bà đọc cho ông nghe mỗi khi rảnh rỗi, từ những sách về các đề
tài hàn lâm mà bà chẳng chút quan tâm. Bà dừng lại bất cứ lúc nào
ông bắt đầu kể lại một ký ức – nỗi bồn chồn của ông khi gặp cha của
bà lần đầu, trong khi bà chờ trong bếp để được giới thiệu ra mắt, vào
ngày đám cưới của họ, khi ông gần như ngất xỉu vì nóng và cái cà vạt
quá siết, hoặc cái ngày họ trở lại Sài Gòn ba năm trước và thăm lại
ngôi nhà cũ của họ trên đường Phan Thanh Giản mà ban đầu họ
không tìm ra bởi vì con đường được đổi tên thành Ðiện Biên Phủ. Sài
Gòn cũng bị đổi tên sau khi đổi chủ, nhưng họ không sao gọi nó là
Thành phố Hồ Chí Minh được. Cả người tài xế taxi đưa họ từ khách
sạn tới ngôi nhà đó cũng không gọi được, cho dù anh ta quá trẻ không
thể nhớ được một thời khi thành phố này chính thức là Sài Gòn.
Họ đậu xe cách ngôi nhà cũ của họ hai căn, và ngồi trong xe để tránh
những cán bộ từ miền Bắc đã dọn vào đó ở sau khi chính quyền mới
tiếp quản. Bà và giáo sư gần như bị chìm trong nỗi buồn và giận dữ,
nổi xung lên khi họ tự hỏi những kẻ lạ kia là ai mà coi sóc ngôi nhà của
họ quá tệ như vậy. Ngọn đèn lẻ loi trong con hẻm soi sáng những giọt
nước mắt của gỉ sét chảy thành vệt trên bức tường, bị mưa trong mùa
đẩy trôi xuống từ lưới sắt trên sân thượng. Khi cần gạt nước của chiếc
taxi kêu cọt kẹt trên mặt kính chắn gió, một thợ đấm bóp về khuya đạp
xe ngang qua, thông báo công việc của anh ta bằng cách lắc một cái
chai thủy tinh đựng sỏi. [12]
“Em bảo anh rằng đó là âm thanh cô đơn nhất trên đời,” giáo sư nói.
Trước khi ông bắt đầu nói chuyện, bà đang đọc cho ông nghe một cuốn
tiểu sử của De Gaulle, và ngón tay bà vẫn chỉ vào chữ cuối cùng vừa
đọc. Bà không thích nghĩ về ngôi nhà đã mất của họ, và bà không nhớ
mình từng nói điều gì như thế. “Mấy cái gạt nước hay chai thủy tinh?”
bà hỏi.