nước và hộp đồ ăn trưa với hai chiếc sandwich đã bóc. Cô đang đeo kính.
Gọng và mắt kính mỏng đến nỗi khó mà nhận ra được.
Skarre rót cho mình cốc cà phê rồi bước tới bàn của cô.
“Tính làm thêm giờ, đúng không?” anh ta hỏi và ngồi xuống.
Magnus Skarre nghĩ hình như cô thở dài một tiếng trước khi ngẩng lên.
“Sao tôi đoán ra hả?” Anh ta mỉm cười. “Sandwich tự làm. Trước khi rời
nhà, cô đã biết căng tin đóng cửa lúc năm giờ và cô sẽ ở lại làm thêm. Thật
tiếc, nhưng nghề thanh tra cảnh sát là thế đấy.”
“Vậy sao?” cô nói mà chẳng thèm chớp mắt và lại cố đọc tiếp tài liệu.
“Phải,” Skarre đáp, nhấp cà phê và tranh thủ cơ hội ngắm cô thật kỹ. Cô
ngồi ngả về phía trước, anh ta có thể trông thấy viền ren áo lót của cô lấp ló
qua cổ áo cánh. “Như vụ điều tra người mất tích hôm nay chẳng hạn. Những
thông tin tôi có thì người khác cũng có cả rồi. Thế nhưng tôi vẫn ngồi đây và
ngẫm nghĩ biết đâu cô ta vẫn đang ở Hoff. Bị vùi dưới tuyết hoặc đống lá cây
chẳng hạn. Hoặc có thể nằm dưới một cái hồ nhỏ hoặc dòng suối nào đó.”
Katrine Bratt không đáp.
“Cô có biết tại sao tôi lại nghĩ thế không?”
“Không,” cô đáp bằng giọng đều đều, không buồn rời mắt khỏi tập tài liệu.
Skarre nhoài người qua bàn và đặt một chiếc điện thoại di động ngay trước
mặt cô. Katrine đành ngẩng lên với vẻ cam chịu.
“Đây là một chiếc điện thoại di động,” anh ta nói. “Chắc cô cho rằng nó là
phát minh khá mới. Nhưng vào tháng Tư năm 1973, cha đẻ của nó, Martin
Cooper, đã có cuộc nói chuyện đầu tiên qua điện thoại di động với bà vợ ở nhà.
Dĩ nhiên lúc ấy ông ta không hề biết phát minh này sẽ trở thành một trong
những biện pháp quan trọng nhất giúp cảnh sát truy tìm người mất tích. Nếu
muốn trở thành thanh tra hạng khá, cô phải chịu khó lắng nghe và học hỏi,
Bratt ạ.”
Katrine bỏ kính ra, nhìn Skarre và tủm tỉm cười, nụ cười anh ta thích nhưng
không thực sự hiểu rõ ý nghĩa. “Tôi xin rửa tai lắng nghe.”
“Tốt,” Skarre nói. “Birte Becker cũng sở hữu một cái. Điện thoại di động
phát ra những tín hiệu được các trạm thu phát sóng trong khu vực tiếp nhận.