Nguồn: http://www.chineseetymology.org/
7.
Ngọ – Ngã. Ta thấy chữ Ngọ gồm chữ Can và dấu phiệt. Chữ
CAN này theo tôi xưa kia vốn là chữ Việt đọc là CÀNH như đã trình bày
trên. Mặc dầu trong các nghĩa của chữ này không thấy có nghĩa là cây gậy
hay sào. Tuy nhiên căn cứ vào các chữ phái sinh như chữ Can
竿 = Cây sào,
Can
杆 = Cây gậy, ta có thể nghĩ rằng chữ can 干 ban đầu có nghĩa là Cành.
Vì là cành nên khi bị phết một bên đầu cho thấy sự không cân bằng, hay
nghiêng qua một bên, ngã qua một bên, nên âm thuần Việt là /Ngã/, còn gọi
là /ngũ/ cận âm với /ngựa/ nên lấy con ngựa làm biểu tượng cho chi này.
Đồng thời chính vì chi Ngọ hay Ngã này là sự phân chia giữa Dương (sáng)
và Âm (chiều) nên ta có từ Ngã ngũ với nghĩa là đã rỏ ràng, rạch ròi.
8.
Mùi hay Vị – Về. Khi mặt trời ngã về sau ngọn cây, là lúc chuẩn
bị về nhà. Do âm Thuần Việt của chữ này là /về = dề / cận âm với /dê/ nên
đưa con dê làm đại diện cho chi này.