sau khi Chu Vũ Vương tiêu diệt nhà Thương, em ông là Chu Công Đán viết
Hào từ. Đến thời Xuân thu (khoảng 722- 481 TCN), Khổng Tử viết Thập
Dực để giải thích về Dịch lí. Từ đó Dịch học được phát triển không ngừng.
IX. Hoài nghi về nguồn gốc Dịch học
Như đã trình bày ở trên, nguồn gốc Dịch học bắt đầu từ một truyền thuyết,
mà truyền thuyết thì dĩ nhiên có nhiều cái cần phải thẩm định. Như chuyện
con long mã, bản thân con long mã là một con vật thần thoại mang tính biểu
tượng nên không có thật, mà đã không có thật thì làm sao Phục Hy thấy
được, đã vậy ngựa không chạy trên bộ mà lại trôi trên sông lại càng làm cho
người đời sau khó tin vào câu chuyện ấy. Không tin nhưng không bỏ, vì cần
có nó để đóng vai trò như là sự bắt đầu. Tuy nhiên càng về sau người ta càng
thấy khó mà tìm thấy rõ ràng về nguồn gốc ai hay dân tộc nào đã khai sinh
ra Dịch học, ngay ở Trung Quốc từ lâu người ta đã nghi ngờ vai trò sáng tạo
Dịch học của Phục Hy. Chính vì vậy mà Tư Mã Thiên, khi viết sử ký, đã
không xếp ông lên đầu thay vào đó là Hoàng Đế; đồng thời cố í gán việc
sáng tạo Dịch cho Văn Vương – Nhà Chu. (Sử Kí Tư Mã Thiên – tr. 44 –
NXB Văn học – 1988). Tuy nhiên việc làm này cũng không ngăn nổi những
người nghiên cứu tiếp tục hoài nghi, đến như Khổng Tử khi viết Thập Dực
để diễn giải Kinh Dịch, dù kính trọng Văn Vương rất mực mà vẫn không đề
cập đến vai trò của của Văn Vương trong việc sáng tạo ra Dịch học, vì vậy
vấn đề này ở Trung Hoa cho đến nay vẫn còn là một câu hỏi. Mặc dầu thế,
người Trung Hoa cũng không cho rằng họ không có bản quyền trong vấn đề
nguồn gốc Dịch học, có nghĩa là họ vẫn tin rằng chính họ chứ không dân tộc
nào khác làm nên điều kì vĩ đó, vấn đề là chưa tìm ra mà thôi, chính vì vậy
chưa có ai trong số họ có í nghĩ tìm nguồn gốc Dịch học từ một dân tộc
khác. Đây chính là khoảng trống nuốt chửng hay lấp lửng đối với những lí
giải nguồn gốc Dịch học từ nơi khác với tư tưởng cho rằng thành quả ấy, nếu
có, là do chính họ đã mang Dịch học đến dạy các nơi ấy hay đó chỉ là kết
quả của sự giao thoa văn hóa giữa nước mạnh và nước yếu mà thôi. Tư
tưởng này đã trở thành cố hữu, không phải chỉ những nhà nghiên cứu Trung