“Không hẳn là một cỗ máy thời gian,” Edmond cười toe toét nói, “nhưng
nó thực sự giúp chúng ta nhìn thấy tương lai. Thêm nữa, nó còn cho phép tôi
điều chỉnh các quy luật vật lý. Chẳng hạn, tôi có thể loại bỏ ma sát để các
bóng không bao giờ bị chậm lại… cứ lăn tròn mãi mãi cho tới khi cuối cùng
tất cả các quả bóng đều rơi vào lỗ.”
Anh gõ vài phím và khởi động quá trình mô phỏng lần nữa. Lần này, sau
khi bung ra, các quả bóng đang tỏa ra không hề chậm lại, mà nảy tít mù
quanh khắp bàn, cuối cùng đều rơi xuống các lỗ ngẫu nhiên, cho tới khi chỉ
còn hai quả bóng còn lại vẫn di chuyển quanh bàn.
“Và nếu tôi thấy mệt mỏi với việc đợi hai quả bóng cuối cùng này rơi,”
Edmond nói, “tôi có thể tua nhanh quá trình.” Anh lại chạm vào màn hình,
và hai quả bóng còn lại tăng tốc, va đập khắp bàn cho tới khi cuối cùng
chúng cũng rơi vào lỗ. “Với cách này tôi có thể nhìn thấy tương lai, rất lâu
trước khi việc xảy ra. Những mô phỏng máy tính thật sự là những cỗ máy
thời gian.” Anh ấy ngừng lại. “Dĩ nhiên, đây chỉ là toán học khá đơn giản
trong một hệ thống khép kín, quy mô nhỏ như một bàn bi a. Nhưng một hệ
thống phức tạp hơn thì sao?”
Edmond giơ cái ống Miller-Urey lên và mỉm cười. “Tôi đoán quý vị có
thể thấy tôi sẽ đi đến đâu với thứ này. Mô phỏng máy tính là một dạng máy
thời gian, và nó cho chúng ta thấy tương lai… thậm chí có lẽ là hàng tỷ năm
trong tương lai.”
Ambra thay đổi tư thế trên ghế, mắt nàng vẫn không rời mặt Edmond.
“Như quý vị có thể hình dung được,” Edmond nói, “tôi không phải là nhà
khoa học đầu tiên mơ đến việc mô phỏng nồi súp nguyên thủy của Trái Đất.
về nguyên tắc, đó là một thí nghiệm rõ ràng - nhưng trên thực tiễn, nó là một
cơn ác mộng phức tạp.”
Những vùng biển nguyên thủy dữ dội lại xuất hiện trong sấm chớp, núi
lửa và những đợt sóng sừng sững. “Mô phỏng đặc tính hóa học của đại
dương đòi hỏi phải mô phỏng ở cấp độ phân tử. Cũng giống như dự báo thời
tiết chính xác đến mức chúng ta biết được chính xác địa điểm của từng phân
tử không khí ở bất kỳ thời điểm xác định nào. Do đó, bất kỳ sự mô phỏng có