tiếp thu và kế thừa lí thuyết văn hoá - nhân học của nhà nhân học Mĩ H.
Morgan, chủ nghĩa Marx không phủ nhận cơ sở vật chất sinh học của con
người, như Marx đã từng chỉ dẫn: "Giải phẫu học về con người là cái chìa
khoá cho giải phẫu học về con khỉ", cho nên nó cũng không coi thường bản
năng và vô thức. Chỉ có điều, do một số nhà lí luận sau này bởi nhiều lí do
khác nhau, đã tuyệt đối hoá mặt ý thức mà xem nhẹ việc nghiên cứu vô
thức và tâm lí cá nhân. Mảnh đất quan trọng và thiết thân ấy, do vậy, trong
một thời kì dài hàng thế kỉ đã là nơi tung hoành của các trường phái tâm lí
học ở các nước tư bản chủ nghĩa Tây Âu và Bắc Mỹ, mà trung tâm của họ
là phân tâm học (Psychanalyse) với đại biểu điển hình là Sigmund Freud
được nhiều người xem là cha đẻ của phân tâm học, một người mà tác phẩm
của mình từng được coi là "cấm kị", không được phổ biến ở một số nước
trong thời kì chiến tranh lạnh.
Trong lịch sử hình thành và phát triển của phân tâm học, người ta
thấy nó quan tâm trước hết đến bệnh lí tâm thần và đời sống vô thức của cá
nhân, rồi sau đó mới có bước chuyển di sang lĩnh vực đời sống xã hội.
Thuật ngữ phân tâm học (Psychoanalyse) xuất hiện bằng tiếng pháp lần đầu
tiên năm 1896 trong một báo cáo của Freud. Thời kì đó người ta hiểu nó
như một liệu pháp y học gọi là "liên tưởng tự do" (freie assoziation). Rồi
sau đó đã bành trướng thành một phương pháp thời thượng sang nhiều lĩnh
vực khác của các khoa học tinh thần. Các hiện tượng xã hội được phân tích
truy nguyên theo các yếu tố bản năng vô thức là những cái được di truyền
từ loài thú đến loài người nguyên thuỷ và tồn tại mãi cho đến con người
hiện đại. Tuy nhiên, trong quá trình tìm tòi nguyên uỷ của bệnh tâm thần cá
nhân và những nỗi đau đớn của họ, phương pháp phân tâm học cũng quan
tâm đến sự tác động của các bối cảnh xã hội thông qua các câu chuyện do
người bệnh kể lại. Những nhân tố xã hội ấy do vậy cũng làm thành cơ sở
của phân tâm học.
Vấn đề cội nguồn của văn hoá và của tôn giáo hiển nhiên chỉ được
đề cập đến trong các giai đoạn phát triển tương đối muộn của phân tâm học,
một mặt phía chủ quan, khi mà nó tin rằng có thể vận dụng qui luật sinh lí -