chứng minh được sự có mặt của Thái vào thời ấy ở xứ ta, nhưng đồng thời
cũng lại chứng minh rằng họ chỉ là kẻ hợp tác chớ không phải là Lạc Việt,
chính nhờ sự nhỏ nhoi của đền thờ và việc thờ phượng lôi thôi cho thấy như
vậy, khác xa với đền Hát Môn của ta và những nghi lễ vĩ đại của ta vào
ngày lễ hai Bà.
Đã bảo chủng tộc nầy có thể vay mượn thần thánh và cả phong tục toàn
bộ của chủng tộc khác, nhưng không vay mượn anh hùng, thì đền thờ hai
Bà trên đất Thái thượng du có ý nghĩa gì?
Đó là người Lạc Việt gốc Tây Âu, họ vốn là lính của An Dương Vương
và đã bị đồng hoá với Lạc Việt.
Chúng ta đã thấy rõ ở một nơi khác là sau khi bị diệt quốc, hậu duệ của
vua nước Thục, cũng là một nước của dân tộc Thái ở Tây Trung Hoa, di cư
xuống Tây Âu, ở đó họ mộ lính Tây Âu để cướp nước Văn Lang của Hùng
Vương. Thắng trận, lên ngôi, tự xưng An Dương Vương, họ không cho ba
vạn quân Tây Âu đánh giặc mướn hồi hương, vì sẽ không còn ai để củng cố
nền thống trị của họ. Dĩ nhiên bọn lính Tây Âu đó lấy vợ Lạc Việt và 110
năm sau, đến năm hai bà Trưng khởi nghĩa thì đã có ít lắm là 5 thế hệ dân
Lạc Thái, nhưng bị đồng hoá với Lạc vì họ là thiểu số.
Nhưng vua Tự Đức chỉ thạo văn thơ, không biết gì khác hết thì còn cho
qua được, chớ những ông H. Maspéro, L. Aurousseau thì không thể tha thứ
về sự sai lầm nầy, phương chi ông H. Maspéro đã sang Tàu để nghiên cứu
Thái và Miêu thì sao ông lại không biết hai điều nầy:
1. Cái địa bàn Thái đã nói trong bức dư đồ kia, tuy ông không vẽ ra
được, nhưng hẳn ông có quan sát, có thấy.
2. Địa bàn đó từ xưa đến nay không hề thay đổi, hay có mà chỉ thay
đổi có một phần sáu là đồng bằng Quảng Đông nay đã bị người Tàu
gốc Âu chiếm hết, người Thái còn lại ở Quảng Đông rất là hiếm
hoi.