Đó là Lạc ngữ thuở xưa mà ta biến khác còn họ thì không biến vì họ ở
trên núi, ít tiếp xúc với ai.
Chúng ta sẽ thấy trong chương nầy những tiếng Mã Lai bị ta biến đến
mất nghĩa, nhưng họ còn giữ.
Thí dụ: chữ CÁI, trong BỐ CÁI Đại Vương, trong Con dại cái mang.
CÁI ấy là Đầu, là Cha, là Thủ Lãnh, còn y nguyên trong Chàm ngữ, Mã
ngữ và Thượng ngữ, chớ không phải là Mẹ như ta đã hiểu lầm.
Con của ông Phùng Hưng chỉ xây đền thờ cho cha, mẹ ông ấy không làm
cái gì cả ngoài việc nội trợ, thì không có lý nào mà ông ấy gộp mẹ vào chức
Đại Vương được hết.
Vả lại trong Việt ngữ hiện kim cũng còn dấu vết của tiếng CÁI đó trong
danh từ Thợ Cái. Đâu có phải là thợ đàn bà hở trời? Đường Cái cũng đâu có
phải là đường để dành riêng cho phụ nữ đi dạo mát. Ngón chơn Cái là ngón
chơn lớn nhứt chớ cũng không phải là ngón chơn của cô nào hết.
Các nhà ngôn ngữ học Tây sắp Việt ngữ vào gia đình Môn-Khơ Me ngữ
vì vấn đề cú pháp, nhưng cú pháp của ta lại không giống cú pháp của Thái
hay sao?
Các ông Tây lại bảo rằng tiếng ta thuộc gia đình Miên ngữ, vì lẽ khác
nữa. Nếu cứ bắt cả hai làm họ với nhau, thì phải nói rằng tiếng Miên thuộc
gia đình Việt ngữ mới đúng. Tại sao?
Về con số, họ chỉ có 5 số, trong khi ta có tới 10 con số. Số 6 họ nói là 5
với 1, số 7 họ nói là 5 với 2, v.v.
Về các bộ phận của thân thể con người, ta chỉ mượn của Trung Hoa một
tiếng độc nhứt là Đầu, nhưng cũng không chắc là mượn, như sẽ xét đến,
trong khi đó thì họ mượn quá nhiều, thí dụ sơ sơ như là: