Việt-Thái
Việt-Bà Na
vân vân, thì ta thấy bộ ngữ vựng Việt Bà Na đồ sộ hơn tất cả mọi ngữ
vựng đối chiếu khác, vì mặc dầu trước kia Bà Na chịu ảnh hưởng Cao
Miên, ngôn ngữ của họ cũng do gốc Mã Lai Bách Việt như ta, chớ không
phải gốc Cao Miên.
Ông G. Coedès cho rằng những ngôn ngữ Sơ Đăng, Bà Na, Ra Đê, Gia
Rai, v.v. là dialectes Môn-khmers, tức phương ngữ của chủng Môn-Khơ
Me. Nhưng như ta đã thấy, qua những thí dụ điển hình trên đây và sau đây
thì không phải thế. Những ngôn ngữ ấy có giá trị ngang hàng với ngôn ngữ
Cao Miên và đều cùng gốc Mã Lai Bách Việt mà ra cả.
Mặc dầu là Viện trưởng của Viện Viễn Đông bác cổ, ông G. Coedès còn
dốt ngữ học hơn đàn em của ông nhiều lắm trong cái Viện đó, nên mới có
sự trống đánh xuôi kèn thổi ngược trong tạp chí của Viện mà giới bác học
chợt thấy là ông Viện trưởng nói sai hơn các nhơn viên thường.
Nói một cách khác, về phương diện chủng tộc và ngôn ngữ, đồng bào
Thượng không hề là chi phụ của Môn-Khơ Me mà là anh em đồng tông y
như Thái, Việt, Chàm và các nhóm Mã Lai hiện nay, bằng chứng là những
danh từ gốc của họ chỉ những vật, những ý cổ sơ nhứt nơi loài người đều
giống danh từ Mã Lai chớ không giống danh từ Cao Miên chút nào.
Những đồng bào Thượng nguyên là phiên thuộc của Cao Miên xưa, như
là Sơ Đăng, Bà Na, Xi Tiêng, Mạ cũng có danh từ gốc Mã Lai nhiều hơn
gốc Cao Miên.
Nội một biểu đối chiếu độc nhứt là danh từ Lá, cũng đủ cho thấy rằng
đồng bào Thượng gần gốc Mã Lai hơn Cao Miên quá nhiều, không cần phải
tranh luận lôi thôi dài dòng.