Giang Hoài ngữ: Ở giữa sông Hoài và sông Dương Tử, là giọng của
nước Ngô thời Chiến quốc, cũng thuộc chủng Việt (Bắc Giang Tô).
Ngô Việt ngữ: Giọng nầy được nói ở Nam Giang Tô và Triết Giang, là
giọng của nước U Việt thời Chiến quốc, cũng thuộc chủng Việt.
Ở đây có một thắc mắc cho nhiều người. Danh từ Ngô Việt ngữ khiến
người ta cứ tưởng địa bàn của Ngô và Việt ở đó còn địa bàn Giang Hoài là
của ai khác chưa biết.
Nhưng thật sự, cứ theo sử Tàu thì Ngô và Việt đánh nhau tại Thái Hồ, tức
nước Ngô phải ở phía Bắc Giang Tô, và nếu chỉ có Bắc Giang Tô thì quá
nhỏ để nước Ngô hùng cường được trong một thời, nên nước Ngô phải
kiêm luôn cả vùng Giang Hoài.
Danh từ Ngô Việt ngữ là danh từ cố ý sai, nó chỉ là Việt ngữ mà thôi,
nhưng người sắp loại sợ lẫn lộn với Việt ngữ Quảng Đông nên phải thêm
tiếng Ngô vào vậy. Hai chữ Việt ấy viết khác nhau.
Điền Kiềm ngữ: Giọng Tàu của người Thái làm chủ đất vùng Vân Nam
và phụ cận.
Và sau rốt:
Trung nguyên ngữ: Đây là Hoa ngữ chánh thống mà cái giọng đọc cũng
được gọi giọng Quan Thoại được nói ở Đông Thiểm Tây, Bắc Hà Nam,
Nam Hà Bắc và Nam Sơn Tây, từ 5.000 năm chớ không phải là Quan Thoại
mới xuất hiện năm 1911 như nhiều người Việt cứ tưởng.
Thấy rõ là sách giáo khoa của Tàu còn thiếu sót, họ thiếu mất một giọng
quan trọng, giọng Hải Nam, vì đảo Hải Nam to hơn cả Bắc Việt nữa.
Nhưng tuyệt nhiên Hải Nam ngữ không được kể đến trong sách giáo
khoa của họ.