Quay qua lộn lại thì suốt ba ngàn năm họ không ra khỏi khu tam giác Bình
Dương - Tràng An - Lạc Dương.
Đời Tống dời đô sang Đông Bắc Hà Nam là Khai Phong, nhưng vẫn
không cách xa Lạc Dương bao nhiêu. Chỉ về sau thì rợ Mông Cổ rồi rợ Mãn
Châu mới đóng đô tại Bắc Kinh, ở ngoài khu vực Trung nguyên ngữ mà
thôi. Tuy nhiên, giọng Quan Thoại vẫn đi theo trào đình ngoại tộc để đến
Bắc Kinh.
Nhưng cái Quan Thoại Bắc Kinh là Quan Thoại lơ lớ Mãn Châu và
Mông Cổ, thế nên từ ngày Mao Trạch Đông lên cầm quyền thì Quan Thoại
được sửa đổi lại chút ít, gọi là TÂN ÂM.
Nhưng cái Tân âm của họ Mao, thật ra là Cựu âm vì Quan Thoại ngày
nay trở lùi về với giọng đọc của khu tam giác nói trên, vì giọng đó mới thật
đúng là giọng Trung Hoa chánh gốc, không bị nói lơ lớ như giọng Bắc
Kinh.
Cũng như ở xứ ta, khi trào Nguyễn cầm quyền thì xem giọng Huế là
giọng chánh, nhưng thật ra giọng chánh gốc của dân tộc ta là giọng Hà Nội,
vì người Hà Nội không bị lai Chàm như người Huế.
Quanh Kinh Đô và ngoài trào đình, dân chúng vẫn nói giọng Trung
nguyên tức giọng Quan Thoại vì đó là tiếng Tàu chánh hiệu, chớ không
phải riêng trong thành vua.
Nhưng những vùng đất xa hơn các kinh đô kể trên chừng vài trăm cây số
là đất Mọi. Thí dụ ở Đông Thiểm Tây, tại đất Cảo, tức Tràng An và Hàm
Dương người ta nói Quan Thoại, nhưng ở Tây Thiểm Tây, thì người Tàu lai
giống với rợ Khuyển Nhung và nói giọng khác gọi là giọng Tần ngữ.
Những vùng đất quanh vùng Trung Nguyên đều là đất của các dân tộc
khác mà người Trung Hoa gọi là rợ. Những vùng đất đó mãi cho đến đời