Việc đồng hóa bằng cách thống nhứt giọng đọc được thực hiện mãnh liệt
nhứt, dưới đời nhà Tần.
Dưới đời nhà Tần, các địa phương phải gởi kẻ sĩ về Hàm Dương để đọc
giọng Quan Thoại và học lối viết thống nhứt do Lý Tư bày ra. Trở về quê
cũ, họ có phận sự dạy lại từ quan đến dân giọng ấy và lối viết ấy. Nhưng vì
là dị chủng nên dân địa phương đọc không giống lắm được theo ý muốn của
Tần Thỉ Hoàng. Tuy nhiên, chiến dịch ấy cũng làm cho họ mất luôn ngôn
ngữ của họ.
Họ bị mất ngôn ngữ, nhưng không mất hết, còn dấu vết và nhờ thế mà ta
biết được vùng nào thuộc “man di” cổ thời nào.
Thí dụ người Quảng Đông có từ ngữ Chẩy nả, có nghĩa là Mẹ con. Chẩy
là tiếng Tàu Tử, còn Nả là tiếng Mã Lai đợt II, tức Lạc bộ Mã.
Chàm: Ina
Việt: Nạ (Nạ dòng)
Mã Lai Nam Dương: Inang
Vì là “man di” nên họ ghép tiếng Tàu Tử với tiếng Mã Lai Nỏ, chớ Tàu
thật thì không mắc chứng gì mà học tiếng Nả khi họ đã có rồi tiếng Mẫu mà
họ rất trọng.
Và vì là “man di” nên cổ Tây Âu mới bất kể luân lý Khổng Mạnh, để con
đứng trước Mẹ.
Đó là sự đề kháng tiêu cực của các man di xưa, nhưng đề kháng tới mức
nào, cũng không đương đầu được với chiến dịch thống nhứt ngôn ngữ của
Tần Thỉ Hoàng, hóa ra toàn cõi Trung Hoa đều nói một thứ tiếng với nhau,
tuy có đọc sai chút ít ở các địa phương.