Chiến quốc, vẫn còn đang được chinh phục, ở phương Đông, còn ở phương
Nam thì công việc ấy mãi cho đến nhà Hán mới xong. Những nước nho nhỏ
đó bị chiếm thì dân, lớp bị đồng hóa, lớp bị lai giống với người Tàu, phải
nói tiếng Tàu, giọng Trung Nguyên, nhưng không nói y hệt được như người
Tàu, họ nói khác không phải vì ở gần hay ở xa Trung Nguyên như có người
tưởng, mà vì họ khác chủng. (Lẽ dĩ nhiên là ngày nay các nơi ấy nói gần
giống Trung Nguyên hơn xưa bởi ảnh hưởng Trung Nguyên như nhiều đợt
sóng liên tiếp, cứ lan lần ra).
Các dân tộc bị lai giống và bị đồng hóa, nói tiếng Tàu lơ lớ, chớ không
phải là dùng một ngôn ngữ khác nào hết.
Mặc dầu vậy, nhóm man di nào cũng còn giữ được lối một trăm danh từ
Mã Lai như Phúc Kiến, Quảng Đông, Hakkas gì cũng còn nói tiếng Mã Lai
hết. Chính một trăm danh từ đó khiến thiên hạ hiểu lầm, ngỡ họ nói một
ngôn ngữ khác. Nhưng khác làm sao được khi chỉ còn sót có một trăm danh
từ?
Trong các biểu đối chiếu, chúng tôi sẽ cho thấy rằng Quảng Đông, Phúc
Kiến vẫn còn nói tiếng Mã Lai, vì họ là Mã Lai đợt II, bọn Austronésien
không kịp di cư, ở lại biến thành Tàu.
Dân Trung Hoa rất lớn, nhưng đặc biệt hơn là dân Ấn Độ, là họ chỉ có
một bộ lạc độc nhứt, nên họ không bao giờ có phương ngữ như Ấn Độ đã
có hằng mấy trăm phương ngữ. Cái ngôn ngữ độc nhứt đó là Trung Nguyên
ngữ, tức Quan Thoại. Những giọng khác, quanh khu tam giác đó, không
phải là phương ngữ Hoa tộc mà là giọng sai của ngoại chủng bị đồng hóa.
Và công việc đồng hóa của họ hữu hiệu đến nỗi man di nào cũng chỉ giữ
được tối đa là một trăm danh từ chớ không hơn. Ta không có bị đồng hóa ở
Tây Âu, tức Quảng Đông, nên ta còn giữ gần đủ những danh từ Mã Lai.