Danh từ Hari nầy, rất là rắc rối trong Mã Lai ngữ và Nhựt ngữ, nhưng khi
nó len vào ngôn ngữ ta thì nó làm cho thiên hạ điên đầu.
Trong ngôn ngữ Mã Lai Hari có nghĩa là Vòm Trời (vật chất), là ông
Trời (thiêng liêng) và cũng có nghĩa là Ngày.
Nhưng có ai tin được rằng Hari biến dạng thành Trời hay không? Chắc là
không. Ấy thế mà có sự biến dạng kỳ dị đó. Chúng tôi biết được là nhờ
những cái khoen nối kết của xâu chuỗi biến dạng ấy.
Dầu sao, Mã Lai đợt I vẫn giàu danh từ hơn Mã Lai đợt II, ta có Ngày lại
có Trời, còn họ thì chỉ có Hari.
Trong Nhựt ngữ, Hari biến thành Hara.
Mã Lai đợt II có Langít để chỉ Vòm trời (vật chất) nhưng các nhóm Mã
Lai đợt I như Cao Miên, Thái cũng đều có (nhưng Việt Nam đã đánh mất
Langít. Chúng tôi nói đánh mất, mà không nói là không có, vì Cao Miên và
Thái có thì ta phải đã có, và một thời nào đó).
Sẽ trở lại vấn đề nầy sâu hơn, trong biểu đối chiếu về danh từ Trời.
Biểu số 13
Việt Nam: Ngoài
Mường: Ngwai
Bà Na: Tơ nguải
Khả Lá Vàng: Hòi
Sơ Đăng: Rơ nghieo
Cổ ngữ Ba Thục: Ngôi
Nhiều tỉnh Trung Việt nói Ngòi tức trung gian giữa Ngoài và Hòi của
Khả Lá Vàng.
Biểu số 14