Ta ngộ nhận về Thị tộc y như ngộ nhận về Quan Lang. Thị tộc không
phải là danh từ chỉ một đơn vị lớn nhỏ nào cả, mà Thị có nghĩa là Tên. Thị
tộc là tên của cái tộc.
Quan Lang cũng không phải là một chức vị, mà là nói tắt câu sau đây:
Quan viên có trọng trách cai trị một lang.
Vị quan đó hẳn có tước hồi cổ thời, nhưng vì người Mường sống biệt lập,
còn ta thì chế độ bị Tàu phá tan, thành thử không còn ai biết tên của cái
tước đó nên mới dùng một đoạn câu (périphrase) để chỉ cái tước ấy, mà lại
nói tắt nữa, khiến về sau ta ngỡ đó là tên của cái tước.
Đọc Đại Việt của Ngô Sĩ Liên, ta thấy Tàu kể chuyện Lữ Gia bị một quan
Lang Việt bắt nạp cho Lộ Bác Đức, khi y chạy trốn. Rõ ràng là vì là ngoại
nhân, nên Tàu không biết cái tước của ông ấy nên chỉ gọi là quan Lang thôi,
y như đã gọi Hùng Vương là Lạc Vương.
Ta thì biết, nhưng chế độ bị diệt lâu đời quá, ta quên đi, nên ta dùng lối
gọi y như người ngoại quốc, tức lối gọi của kẻ không biết sự thật.
(Danh từ quan mà ta dùng, chưa chắc là Hán Việt, vì tiếng Mã Lai nó là
Tuan đấy. Có phải chăng quan Lang là Tuan T’lang bị đọc trại đi, chớ
không chắc lắm là ta đã quên, và Tuan không có nghĩa là Quan mà có nghĩa
là nhà lãnh đạo).
Và khi cái Thị tộc nở ra quá lớn thì được gọi là Hậu. Giờ thì Hậu mới
đích thực là một danh từ, chỉ một gia đình khổng lồ, có tổ chức hẳn hòi để
đánh giặc nữa, chớ không phải tổ chức luân lý, trật tự, kinh tế, tôn giáo mà
thôi.
Hậu mới đích thực là Clan.
Còn Thị tộc phải được dịch ra là Nom de la grande famille (Tên riêng của
một siêu gia đình) chớ không phải là Clan.