ghé vào một quán trà, đọc được bài thơ ai đó dán trên vách. Lời thơ
chỉ trích rất nặng nề về một “thằng bạc mắt vô tâm thiên lệch”
khiến cho tất cả bị biến loạn về nhân tính. Ông đi vào một ngôi
chùa, lại cũng gặp bài thơ chửi một kẻ đã xua đuổi các cựu thần, đề
ra hàng loạt luật mới hãm hại muôn dân. Vương An Thạch có phần
bất bình nhưng im lặng. Ông đến một thị trấn khác, vào nhà xí đi
vệ sinh, lại thấy trên bức tường vôi cũng dán một bài thơ, ở hai câu
luận chửi kẻ xua đuổi hiền thần gây nên gốc họa. Thậm chí, ông
vào trọ tại một xóm nhỏ, chủ nhà chỉ có một bà lão 80 tuổi cùng cô
giúp việc cũng đọc được một bài thơ chửi ông là kẻ có chữ nghĩa
nhưng là tài học của bọn gian tà, thế nào cũng bị quả báo. Bà lão
không biết vị khách trọ là Vương An Thạch cứ vanh vách chửi ông
khiến ông ta không dám lưu lại phải bỏ đến một xóm khác. Nhưng
đến đây ông cũng gặp một bài thơ nữa trong đó có hai câu chửi ông
rất nặng: Đã không tiếng tốt cho đất nước, Lại để lời nguyền
hận khắp nơi. Ông nén giận, ở qua đêm, nhưng sáng hôm sau, vừa
tỉnh dậy đã nghe tiếng chủ nhà gọi gà, gọi lợn:
-Túc! Túc! Túc! Vương An Thạch đến đây nào?
-Lô! Lô! Lô! Ảo tướng quân lại ăn cám!
Đến đây thì Vương An Thạch thấy mặt mũi tối sầm! Ông nhận
ra nhân dân đã căm phẫn pháp luật mới đến tận xương tủy, họ xem
Vương An Thạch như là súc sinh. Người dân phản kháng ra mặt vì họ
là người thấp cổ bé họng. Họ dùng thơ dân gian để nói lên suy nghĩ
của mình. Dân giận tể tướng đến khắc cốt ghi tâm nên từ chuồng
xí đến chốn lầu cao luôn có thơ vạch tội tể tướng!
Vương An Thạch nhận ra một điều rằng, những bài thơ trên
vách trên tường kia, nếu không của quỉ thần làm thì cũng do những
kẻ vô danh trong dân gian tạo ra. Ông đã làm nhiều điều không
đúng mà cứ tự cho là đúng nên bị quỷ thần quở trách! Nếu như