nghĩ dù có chết cũng phải để lại cho cõi đời mà anh yêu mến một cái gì vừa
tinh khiết, trong sáng, vừa tha thiết yêu thương nhất của tâm hồn.
Đối với một người thanh niên thời đó, địa vị không có, gia đình suy
tàn, học thức tầm thường nhỏ nhoi, anh nghĩ, chỉ còn một cách tồn tại trong
cuộc sống bằng cái cao quý, trong sạch của văn chương. Và anh bắt đầu
viết, viết suốt ngày suốt đêm, viết một cách đau khổ, say mê, bất chấp "cái
đói ê ẩm thấm thía vô cùng trong đêm mưa lạnh hoang vắng".
Bỉ vỏ được viết "trên một cái bàn kê bên khung cửa trông ra vũng
nước đen ngầu bọt của một bãi đất lấp dở dang và một chuồng lợn ngập
ngụa phân tro" (2). Cũng như một nhân vật của Nam Cao trong truyện ngắn
Trăng sáng, Nguyên Hồng thường mê mải ngồi viết truyện giữa tiếng tranh
giành xô xát, mỉa mai đay nghiến, eo sèo khắc khoải của những người dân
nghèo trong các ngõ hẻm thành phố. Viết văn đối với anh là một lẽ sống.
Cho nên ngay cả trong những ngày đi tù ở Bắc Mê, cứ mỗi buổi trưa đi làm
cỏ vê về anh lại ngồi viết ở một gốc cây mé sau trại giam, dưới một bầu trời
mờ mờ xám xám, xung quanh là màu xanh hoang vu của núi rừng dày đặc
và tiếng gió rừng lạnh lẽo hú lên từ thung lũng này qua thung lũng khác
(Cuộc sống).
-----
(2) Tôi viết Bỉ vỏ.
Cho đến những năm dài về sau, khát vọng sáng tạo vẫn cứ luôn luôn
thôi thúc anh một cách mạnh mẽ, tha thiết, đến mức anh nghĩ rằng mình có
thể chết dần chết mòn nếu như vì một lý do nào đấy, không thể cầm bút
được nữa...
Những ảnh hưởng lung linh, choáng ngợp ban đầu của Thế Lữ, Lưu
Trọng Lư, V.Hugo... có thể kéo cây bút Nguyên Hồng về phía chủ nghĩa
lãng mạn. Cả cái hưng phấn nội tâm, cái bút pháp cường điệu, phóng đại