chúi xuống bồng lên, nhiều lúc bật cồng cộc vào mặt vào trán bác. Chưa
bao giờ tôi thấy một đôi mắt vàng nhớt, sâu tối và cái nhìn ngờ ngạc mà
chợt lại sáng dữ như thế.
Trên cái bàn của tôi ấy, Nguyễn Huy Tưởng đã viết được hơn 50 trang
tiểu thuyết Những người dệt vải rồi bỏ dở.
Sau cái bàn ấy, trên chồng chăn và sách báo kê thật phẳng phiu, tôi đã
viết chưa được 5 trang tiểu thuyết Tù trẻ con. Và cũng phải bỏ dở...
2. ĐÔI CHIM THÀNH
Tiếng chó cắn tua tủa rồi có tiếng người gọi to tận đầu cổng ngoài ao:
- Ông Hồng ơi! Ông có khách... Ông Hồng ơi! Có khách.
Trời đất còn mù mịt. Gió lạnh hun hút. Cả nhà tôi đang ngủ, tôi
choàng dậy, luống cuống hớt hải gọi vợ tôi:
- Bu Hà ơi! Diêm đâu? Khổ quá, còn bao diêm của tôi cũng lấy nốt,
rồi cũng lại vứt đi đâu ấy!
Bà mẹ vợ tôi ngủ trong buồng với vợ tôi và thằng con đầu lòng của tôi
vẫn là người dậy trước trong những lúc như lúc này, lục đục tìm ở thúng
thuốc, đầu giường, ở bị đồ khâu. Bà lắc lắc bao diêm để tôi đến lấy. Châm
được lửa, tay cầm đèn, tay cầm đòn gánh, tôi chạy ra cổng, tâm trí bàng
hoàng, trong người chờn chợn. Khách nào đây? Ai mà lại tìm đến tôi ở chỗ
này, vào lúc này?
Tôi chưa kịp soi đèn để trông rõ mặt khách, thì cả khách và tôi cùng
reo lên:
- Ông Hồng!...
- Ông Lân!... Ông Kim Lân, ối giời ơi! ông Kim Lân!