gác xe củi vào. Bà Thanh đội một cái thúng đã cũ mà bá Chính xin của nhà
bếp cho để đựng mười ống cân gạo đỏ, gói to cá tép khô trên đậy giấy nhật
trình, và mấy bó rau dưa đã héo của cụ Cố bảo vú em lấy ở nhà bếp cho mẹ
con Thanh. Bá Chính tiễn chân mẹ con Thanh ra quá ngoài cổng. Y dùng
dằng đặn đà bảo mẹ con Thanh:
- Có gì thì cứ nhắn người gọi tôi nhé!... Hôm nay, bà cụ bận, mẹ con
không lên hầu bà cụ được. Để rồi tôi sẽ lại lựa lúc lựa nhời nói với bà cụ
cho mẹ con.
Mẹ Thanh chào bá Chính không ra tiếng. Chiếc thúng không nặng
lắm, nhưng thấy khó đội quá. Một tay bà giữ cạp thúng, một tay bà luôn
luôn nắn xuống cái gói khăn tay trong túi áo. Đó là đồng bạc hào của bá
Chính dúi cho bà lúc người vú em nhà khách xuống đong gạo và lấy cá ở
kho cho bà xong rồi vội quay lên vì có tiếng cụ Cố gọi. Đến đầu cái ngõ
hẻm rẽ về nhà, chợt mẹ Thanh nhớn nhác nhìn trước nhìn sau. Bà không
thấy Thanh đâu cả. Và cũng không hiểu Thanh đi quặt ra ngoài xóm hay
còn đứng lại làm gì. Bà đặt hẳn thúng xuống đất, quay vội lại cái ngõ lối
cổng sau trại Đức Sinh. Cũng không thấy Thanh. Mồ hôi lạnh toát ra, bà ú
ú gọi "Thanh ơi! Nó lại còn đi đâu bây giờ?!". Đến bây giờ bà mới nhận ra
nhiều người cứ nhìn chò chõ vào bà. Và cũng đến bây giờ bà mới thấy như
có mũi đòng đâm vào lòng bà vậy.