ba hoa mấy câu về chiến tranh, rồi bị bọn mật thám trù vì không lo lót thết
đãi tốt chúng nó khi chúng nó cùng gã đi hát cô đầu. Vừa vào trại, gã ta liền
kêu buốt óc, kêu đau ngực. Rồi có lúc lại kêu vừa ho khạc ra máu, vừa sốt
âm âm buổi chiều. Trật tự trại xếp chỗ nằm ở giữa trại với mấy anh thợ Xi
măng, Máy tơ, Máy chỉ nhưng gã nhất định cắp chiếu nằm ở cuối trại bên
cụ Coóng. Thế rồi khi nào cứu tế đem được nước sôi pha chè hay hâm cháo
cho cụ Coóng, gã nhổm ngay dậy chìa bát xin và cứ để cụ Coóng sẻ cho mà
uống trước, ăn trước.
Cụ Vy và cụ đi lưới cũng dự lớp. Cả anh cháu cụ Coóng nữa. Có ba
người này nghe nên cả Tô và Lương càng phải nghĩ, phải tìm cách trình
bày các vấn đề sao cho hợp. Anh cháu cụ Coóng chỉ nghe được những câu
tiếng ta rất dễ và nói chậm. Còn hai ông cụ thì cười xòa đại khái bảo: "Thôi
chúng tôi cứ là xin theo với anh em chứ chúng tôi thật là nghe trước quên
sau, chỉ học với ông sáu tấm là thuộc là chắc nhất!".
Tất cả chương trình huấn luyện, chị em bên xà lim trại tù đàn bà đều
tham dự hết. Buổi sáng, buổi chiều, Tô và Lương nói xong thì đến trưa đến
tối viết thành bài đưa sang cho chị em. Dạo này phép càng bị khám ngặt.
Cả khúc cá kho cũng bị dầm nát ra. Quả chuối nào cũng bị bẻ đôi. Không
phải để tìm thuốc lào thuốc lá như phép của tù án thường, mà để xem bên
ngoài có gửi tài liệu, giấy tờ tin tức gì không. Một mẻo giấy dính vào xôi
hay phong bánh khảo đã nhờn bột đậu mỡ cũng bị bóc ra, không cho đem
vào trại. Còn những thứ của gia đình gửi dây thép, không ai nhận được bức
nào. Bọn xubadăng ta cũng rất nghiệt khi đưa giấu thư từ quà bánh. Gặp
phiên gác của hai lão có cảm tình nhất và cũng là bạo nhất, anh em mới
được bao thuốc lá, bao chè tàu là nguồn giấy chủ yếu để viết tài liệu. Sau
giấy trắng nhờ tù cỏ vê án thường và xubadăng mua không được, thì tất cả
các bài đều viết với giấy bao thuốc bao chè.
Chỉ mình Tô viết. Thấy Tô bỏ cả ngủ trưa và đến khuya cứ còm cõm
ngồi gò ngực xuống cái bảng con ghi số tù nhân trong trại kê lên đầu gối