Đêm đầu mùa xuân nhưng trời đất cứ như mực. Sương mù quấn lấy cả
mặt người ta. Gió lạnh cắt. Gió ngoài biển thổi vào. Vì thế ngoài trời khi
bặt tiếng chuông và tiếng lợn thì lặng sâu lặng ngắt. Cũng như ngoài vùng
lửa đuốc phần phật ngùn ngụt và ánh đèn măng sông sáng chói, chỉ còn
bóng tối và sương đen thẳm.
Trước sân nhà dưới của cụ Cố bỗng có những bước chân cồng cộc và
đàn chó chồm nhảy kêu rít. Bõ Quý gác cổng khu nhà trên đã xuống, khập
khiễng chiếc chân gỗ bịt sắt, tay lật bật cái roi mây đầu bịt đồng, đi giữa
những con chó to như những con báo, lông cũng vằn như lông báo! Dù một
bên mắt chột thây lẩy đã chết rồi, bõ Quý vẫn thấy ánh đèn ánh lửa bất
thường nọ lại làm đầu óc hắn nhức nhối. Bởi vậy hắn luôn luôn phải chớp
bên mắt còn sáng và càng lia nhanh cái chân gỗ đi qua chỗ mổ lợn và đun
nấu.
Hắn thở cũng hồng hộc rin rít.
Không phải hắn rét. Cũng không phải vì đau, vì mệt. Hắn đã mặc một
áo bông cộc lại còn khoác một áo bành tô dạ lính nặng hàng bảy tám cân.
Đầu thì vừa quấn khăn bông vừa đội mũ len đan bịt tai. Hắn thở như thế do
thói quen. Cái thói quen mỗi khi đang nằm phải trỗi dậy, phải đi nhanh để
làm những công việc dọa nạt, xua đuổi, bắt bớ. Phải rồi, hắn lại xuống nhà
củi, đến cái xó ấy đây. Vẫn ở cái xó ấy, lại có tiếng kêu u ú dưới những
tiếng vun vút của ngọn roi mây bịt đồng quật xuống: "Khòa! Khòa!...".
Hình thù lồm cồm tung cái đùm bao tải chiếu rách ấy là một thân thể
cao lớn, cởi trần, đầu trọc mum múp, mặc quần đùi. Khòa còn bị quất thêm
bảy, tám roi nữa lên cả vai cả gáy cả đầu, nhưng khi ngửa mặt hấp háy nhìn
ra bõ Quý, thì cái mặt nhăn nhúm xệ xệ của y lại như cười. Cái cười ở cả
hai con mắt hùm hụp không có lông mày, ở cái trán ngắn, ở cái mũi hếch
thù lù, ở cái miệng bệu, hàm lẹm. Ở tất cả bộ mặt bủng bớt, ngây ngố, khó
mà đoán được là đàn ông hay đàn bà và bao nhiêu tuổi.