phúc không bỏ tù mà vẫn còn dám tụ bạ bạn bè đểu cáng như vậy với người
Việt Nam. Chỉ loáng cái, từ các ngã tư đường Hàng Trống, đường phố Huế,
đường Bờ Hồ cũng ồn ồn ầm ầm lên, đổ dồn người xuống. Xe điện phải
dừng lại ở trước nhà Dây thép vì các trẻ em chạy theo bám lấy, mấy đứa
ngã suýt chết, và đường tàu thì bị nghẽn vì tắc lối, xốn xáo nhớn nhác.
Hai tàu bò và ba căm nhông sơn xám lại rầm rầm kéo qua. Những lính
Nhật giữ súng liên thanh đứng nhô hẳn đầu lên ra khỏi các cửa tròn tròn
mắt cáo. Dưới những mũ sắt, thoạt trông vẻ mặt họ thì thấy nghiêm nghị
như không thể mảy may gì làm cảm động được. Nhưng cả bọn này cũng
như bọn lính đội mũ vải chum chủm, xăm xắm lưỡi lê, đứng trên ôtô đều
ngây dại, thẫn thộn thế nào ấy, khi qua quãng ngã tư nhốn nháo ầm ĩ nọ sắp
nổ tung thành một cuộc phá phách hỗn loạn ghê gớm lắm!
Đi khỏi cái tháp gạch xây bên bờ hồ, nay dán chi chít các thứ bố cáo,
yết thị, tuyên bố, lời kêu gọi, vân vân, của cả quân đội Nhật và các tổ chức
không hiểu mọc ra để làm gì,... bọn Thái Trang đã bớt khổ vì sự huyên náo
hỗn loạn. Nhưng cảnh người chết từ đây lên bến tàu điện, đầu Hàng Ngang
và phố Cầu Gỗ ra đường Bờ sông lại càng kinh khiếp hơn. Mặc dù các xe
nhặt xác đêm qua và sớm nay đã tải vội đi hàng chục chuyến rồi cả người
đang ngắc ngoải, nhưng ở các gốc cây bờ hè và bên bờ cỏ mép hồ, người
đói chờ chết vẫn la liệt, mà hình như không một kẻ qua đường nào dám
thấy mình cho họ dù hàng đồng hàng chục đồng chăng nữa mà thoát được
nạn này. Bởi vậy, kẻ đi thì lặng lẽ, rảo bước. Người xin thì chỉ giương mắt
nhìn và cũng chẳng van lạy gì nữa.
Trời mây đã xám xám, lởn vởn những hơi những khói hôi thối, lại còn
ruồi nhặng vo vo từng đàn trên đầu người ta, càng làm không khí nặng
thêm như chì, như át xít. Tháp Rùa đen mốc, im lìm giữa một mặt nước
xanh rêu, chẳng còn là hình dáng bông sen mảnh khảnh thơ mộng nhìn từ
phía xa... Khu đền Ngọc Sơn cũng như bỏ hoang, mấy con quạ cứ rà rà bay
lên bay xuống. Chân Tháp Bút đầy người nằm gối đầu, ấp cánh, xoạc cẳng,