với các phim Pháp mốc meo, trước đây có tối đem chiếu chỉ được mười
người xem, phải xin lỗi trả lại tiền vé. Khách vẫn là Tây, đầm, các cô các
cậu của các quan, các chủ. Còn ở mấy ôten, không còn được ôm nhau nhảy
nhưng vẫn thấy xập xình kèn sáo trống mõ, hầu nhạc các khách ngồi uống
rượu suông...
Từ một rưỡi đến hai giờ, khi bãi đá bóng mở cửa, các rạp chiếu bóng,
rạp hát nổi chuông, các ôten và phòng trà nhận khách, thì đường phố lặng
hẳn. Riêng quãng đường giữa hai khu phố Bônbe và Cầu Đất, chạy ra bến
tàu Sáu Kho lại càng vắng lặng. Đây không có một tàu to đến ăn hàng, dỡ
hàng. Cái tàu Vigilăng gọi là pháo thuyền độc nhất trấn giữ hải cảng cũng
không thấy. Trơ trỏng có hai xà lúp thì một cái đang kỳ cạch sửa chữa,
trông như một nhà mồ, một cái đỗ lút vào đám thuyền chở than lèo tèo mấy
đàn bà trẻ con, đội từng thúng than đi lên đi xuống trước những cầu kho
cũng sắp bỏ hoang.
Con sông Cửa Cấm sóng nước càng rực rỡ lại càng trơ trụi, hoang tàn,
dù chưa bị bắn phá bom đạn gì cả.
Ông ký Thái nhà ta đến quãng đường này, vào lúc một đám bụi mù lên
với những tiếng hí tiếng hét. Đoàn ngựa chiến của trại lính Nhật đang chăn
qua đấy xuống các làng dưới cửa sông. Tất cả những xe cộ, hàng họ, gồng
gánh và người đi đường đều giạt về bên.
Toàn ngựa cao lớn, màu lửa, màu tía, màu ô dồn đi rầm rập như sắp
làm bật tung mặt đường hay dẵm nát hết bất kỳ người hay đồ vật nào
vướng víu. Trên lưng mấy con ngựa lừng lững đi đầu và đi sau cùng, có
những viên quan đeo kiếm dài, mắt một mí hum húp, gương mặt vô cùng
lạnh lùng, như không thèm nhìn thèm biết đến mọi vật mọi người ở hai bên
đường và dưới ngựa mình. Hàng chục lính đội mũ vải chum chủm, áo cộc
tay, quần đáp cả đầu gối và đũng, khăn mặt bông cũng màu cứt ngựa quàng
cổ, lạch bạch chạy bám lấy chân ngựa của quan ngồi và hò hét những con