Ra quyết định và phân tích vấn đề
Làm doanh thương thì phải ra quyết định, quyết định thường xuyên,
nhanh, và nhiều khi cũng không rõ là quyết định được đưa ra đúng hay sai.
Từ năm 1950, giới doanh thương đã may mắn được (hay là bị “ám tài”) bởi
một thế hệ nhà khoa học về nghệ thuật quản lý và những nhà quản lý có đầu
óc phân tích, đào tạo từ các trường chuyên về kinh doanh, từ các công ty kế
toán và tư vấn, là những người khi gặp bất cứ vấn đề nào cũng đều phân
tích thật kỹ lưỡng (thường dựa trên cơ sở dữ liệu thông tin thu thập thật
phong phú và tốn kém). Phân tích có lẽ là ngành có mức độ tăng trưởng
mạnh mẽ nhất của Hoa Kỳ trong nửa thế kỷ vừa qua và nó đã đóng góp, hỗ
trợ đắc lực trong một số những thành tựu lớn nhất của đất nước này, như
chuyện con người đặt chân lên mặt trăng và mức độ chính xác không thể tin
nổi trong những vụ oanh tạc trong Chiến tranh Vùng Vịnh.
Các công ty lớn theo trường phái Anh-Mỹ đã lạm dụng kỹ năng phân tích
Tuy nhiên, phân tích cũng có mặt trái của nó: tình trạng phình to của các
bộ máy nhân sự mà, rất đúng đắn, hiện nay người ta đang phải tinh giản;
tình trạng thừa mứa những phong trào tân kỳ nhất thời chủ yếu là do mồm
mép của những chuyên gia tư vấn điêu luyện với những con số; tình trạng
thị trường chứng khoán bị mê hoặc bởi những phân tích chưa bao giờ rắc
rối bằng đối với những khoản lợi nhuận ngắn hạn bất chấp thực tế những
con số ấy chỉ thể hiện một phần nhỏ giá trị của công ty; và tình trạng niềm
tin trực giác rút lui khỏi tuyến đầu của nhiều hoạt động doanh thương.
Chính tình trạng sau này không chỉ dẫn đến thực tế lan tràn mà nhiều người
đã gọi là “hội chứng tê liệt vì phân tích” (analysis paralysis), mà còn gây
những thay đổi mỗi lúc một tệ hơn ở những người đứng đầu những tập đoàn
lớn ở phương Tây. Phân tích đã xua đuổi óc tưởng tượng và khả năng dự
cảm, y như chuyện những chuyên gia phân tích đã tống cổ ra khỏi phòng
tổng giám đốc những con người có tầm thị kiến – giàu trí tưởng tượng bay
bổng và biết vận dụng trực cảm.